Thứ Tư, tháng 12 25

HÌNH ẢNH ĐI CHƠI NOEL

Bên sông Hàn đêm trước Noel
Hường ngốc lần đầu đi chơi đêm Giáng sinh
Một góc nhỏ phía sau nhà thờ Con Gà

Hoa và người cùng nhau nhìn Chúa cầu nguyện
Bên hang Bê hem
Cây thông Noel làm chứng
"Mùa Noel đó chúng ta bên hông giáo đường"

Chủ Nhật, tháng 12 22

CUỐI TUẦN THƯ GIÃN

Kẻ Thù
 
Mục sư đang khuyên giải tín đồ cai rượu: 
"Rượu khiến cho gia đình bất hòa, rượu khiến anh mất bạn bè, rượu làm công việc của anh bế tắc,
và quan trọng hơn là rượu tạo nên những tổn thất nghiêm trọng đối với sứckhỏe. 
Có thể nói rượu là kẻ thù lớn nhất của đời anh." 
Tên bợm nhậu kia đáp lại ngay: "Thưa mục sư, nhưng con thực hiện đúng điều ngài khuyên con!" 
Mục sư ngạc nhiên: "Anh nói sao?" 
Bợm nhậu: "Có phải Người thường bảo phải yêu thương kẻ thù của mình, đúng không ạ ?" 
 
Say 1
Nửa đêm có tiếng gõ cửa. Bà vợ thức dậy hỏi:
- Ai đó, có phải anh không?
Im lặng. Lại có tiếng gõ cửa.
- Phải anh không đấy? Đừng làm em sợ chứ!
Tiếp tục im lặng. Lại có tiếng gõ cửa, bà vợ quyết định ra mở cửa thì thấy ông chồng say khướt đang đứng trước cửa. Bà vợ lập tức hét lên:
- Ông chết đi! Tại sao tôi hỏi mấy lần mà ông không trả lời?
- Thì lần nào bà hỏi tôi cũng gật đầu rồi, bà còn muốn gì nữa?
 
 
Say 2
Một bợm nhậu trên đường về nhà thì bị ngã. Tới nhà, khi thay quần áo, liếc trong gương thấy vết thương, bợm ta cố gắng băng bó, sát trùng cẩn thận.
Khi đặt lưng xuống giường, vợ vẫn ngủ say, anh ta yên chí là đã qua được mặt "sư tử Hà Đông" rồi. Đến sáng, bừng tỉnh vì tiếng tru tréo của vợ, bợm hỏi tỉnh queo:
- Có chuyện gì thế?
- Tối hôm qua lại xỉn phải không?
- Đâu có!
- Thế ai bôi thuốc đỏ, dán bông băng đầy cánh tủ gương đây!
 
Cô ấy nói
Buổi tối, bà vợ là sư tử Hà đông nấu nướng xong liền ra lệnh cho con gọi điện cho bố về ăn cơm ngay. 
Thằng con sau một hồi hì hục gọi chạy ra gào toáng: "Mẹ ơi, mẹ ơi...". 
- Chuyện gì vậy? - Bà mẹ hỏi.
- Mẹ ơi, con gọi 3 lần liền mà lần nào cũng có một cô trả lời.
Bà vợ điên tiết, đợi đến lúc chồng đi làm về liền nhảy ra đấm đá túi bụi. Ông chồng bị bất ngờ không hiểu vì sao chỉ kịp nằm lăn ra kêu cứu.
Hàng xóm thấy vậy sang xem rất đông. Thấy thế, bà vợ lúc này mặt vẫn đang hầm hầm liền bảo thằng con:
- Mày nói cho các bác ấy nghe đi, cái con kia nó trả lời máy của thằng bố mày thế nào?
- Dạ, cô ấy bảo: "Số máy quý khách vừa gọi hiện không liên lạc được"...
 
Ly hôn
Một cặp vợ chồng già quyết định chia tay. 
Trước khi cho phép hai người ly thân, tòa án đề nghị họ đến một cơ sở tư vấn hôn nhân gia đình để tìm cơ hội cuối cùng cứu vãn cuộc hôn nhân.
Chuyên gia tư vấn trổ hết khả năng ăn nói để thuyết phục đôi vợ chồng già nhưng vô hiệu. 
Hai người khăng khăng một mực đòi sống ly thân để tiến tới ly dị. Cuối cùng, vị chuyên gia thở dài:
- Các cụ đã có tuổi cả rồi, một người 95, còn người kia 93, kết hôn với nhau đã 72 năm. Tại sao bây giờ lại phải chia tay cơ chứ?
Cụ bà đáp lời:
- Chúng tôi không thể chịu đựng nổi nhau suốt 46 năm qua nhưng cả hai đều nghĩ rằng cần chờ đến khi lũ con qua đời hết rồi mới chính thức cắt đứt quan hệ, kẻo chúng nó đau lòng...
 
Y khoa tiến bộ
Một cô ngoài bốn mươi tuổi, bước ra từ phòng khám của bệnh viện thốt lên với những người đang ngồi chờ:
- Y học bây giờ tiến bộ quá!
Có người hỏi tại sao, cô nói:
- Cách đây hơn 20 năm, mỗi lần tôi bị viêm họng phải đến bệnh viện, bác sĩ thường bắt tôi cởi bỏ hết quần áo, khám rất kỹ toàn thân, phải mất hàng tiếng đồng hồ mới phát hiện ra bệnh. Còn bây giờ tôi cũng bị viêm họng, bác sĩ chỉ bắt tôi há miệng ra rồi kê toa cho mấy viên kháng sinh, thế là xong.


_

Thứ Sáu, tháng 12 20

Tuệ Sỹ trên ngõ về im lặng


Từ Nguyễn Du đến Bùi Giáng, từ Rimbaud đến Phạm Công Thiện, từ Holderlin đến Hoài Khanh, từ Whitman đến Nguyễn Đức Sơn, từ Tagore đến Phạm Thiên Thư, từ Tô Đông Pha đến Tuệ Sỹ… bước đi của những thi sĩ thượng thừa ấy đã làm bay dậy cả trời thơ đất mộng phiêu bồng thi ca. Hòa âm cung bậc ngân nga nhã nhạc theo thể điệu cô liêu vang vọng suốt muôn trùng vạn cổ sau xưa:
Giữa thiên đường rong chơi lêu lổng Cõi vĩnh hằng mờ nhạt rong rêu Ta đi xuống quậy trần hoàn nổi sóng Đốt mặt trời vô hạn cô liêu
Tuệ Sỹ là ai mà thơ hào sảng, hùng tâm tráng khí như thế? Quê quán Quảng Bình, sinh năm 1943, Tuệ Sỹ nhỏ hơn Phạm Công Thiện 2 tuổi, cũng là một bậc thiên tài xuất chúng, làu thông kinh điển Nguyên thủy, Đại thừa và nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Nhật, Hán, Phạn, Pali. Khi mới vừa 26 tuổi đã viết Triết học về Tánh Không làm chấn động giới văn nghệ sĩ, học giả, thiện tri thức Việt Nam thời bấy giờ.
Cùng đứng tên trong nhóm chủ trương tạp chí Tư Tưởng của Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, trước năm 1975, Tuệ Sỹ cũng là giáo sư giảng dạy Thiền tông, Trung quán luận ở Đại học Vạn Hạnh và Cao đẳng Phật học viện Hải Đức, Nha Trang, nổi bật lên như một hiện tượng độc đáo, gây bao nguồn cảm hứng cho những tâm hồn ưa thích thiền học, thi ca và phiêu lãng.
“Chỉ một bài thơ, Tuệ Sỹ đã trùm lấp hết mọi chân trời mới cũ từ Đường thi Trung Hoa tới siêu thực Tây phương.”* Bùi Giáng đã nhận định như thế về Tuệ Sỹ qua bài thơ Không đề:
Đôi mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan Cười với nắng một ngày sao chóng thế Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng?
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ Bụi đường dài gót mỏi đi quanh Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn
Trừ Bùi Giáng ra, khi nói về Tuệ Sỹ thì có lẽ không ai đủ tư cách, thẩm quyền bằng Phạm Công Thiện: “Có sống bên cạnh Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát từ ngày này qua ngày khác, trong những hoàn cảnh khác nhau thì mới may ra cảm nhận đôi chút tác phong thiền sư kín đáo toát ra một cách tự nhiên, một cách vô công dụng hạnh từ đời sống thường nhật và tinh thần diệu nhập của hai vị. Tôi xin gọi hai vị này là thiền sư với tất cả đắn đo thận trọng, với tất cả ý nghĩa cao đẹp và như thực của một danh xưng xung thiên chí.”
Như vậy, chúng ta có thể gọi Tuệ Sỹ là một thiền sư thi sĩ với ý nghĩa trọn vẹn, tốt đẹp nhất của danh từ. Điều đó chứng tỏ qua những tác phẩm thâm viễn uyên áo, nhất là thể hiện qua phong cách sống đạm bạc, đơn sơ giản dị mà rất nghệ sĩ phóng khoáng an nhiên tự tại, khai mở thông lộ tự do cho con người, biết mỉm cười vô úy, “uy vũ bất năng khuất” trên tinh thần hạo nhiên chi khí đại bi tâm.
Còn bậc kỳ tài Lê Mạnh Thát, du học ở Mỹ, đỗ ba bằng tiến sĩ lúc 30 tuổi, bạn thân thiết cận kề Tuệ Sỹ là nhà Phật học, Sử học quảng bác, lão luyện uyên thâm, một con người quán tuyệt cổ kim, thông tuệ, siêu quần bạt chúng cũng bằng tuổi Tuệ Sỹ. Toàn bộ tác phẩm Lê Mạnh Thát dày mấy chục ngàn trang đã đóng góp vào kho tàng văn học Phật giáo Việt Nam thêm phong phú, vô cùng giá trị.
Năm 1973, Tuệ Sỹ vừa đúng 30 tuổi, viết Tô Đông Pha những phương trời viễn mộng, một tác phẩm thâm thúy tuyệt trù, trữ tình lai láng, tràn đầy chất nhạc và thơ, mở ra con đường phong quang sáng tạo, ngạt ngào hương vị thi ca hòa chan cả trời thơ bát ngát: “Đạt đến cõi thượng thừa của Thơ như người học Thiền chứng chỗ Không tịch của Đạo, cái đó vừa khó vừa dễ. Học Thiền ba mươi năm đày đọa thân tâm mà không thành. Phẫn chí bỏ đi, bất chợt thấy một cánh hoa rơi, cõi Không tịch cũng hoát nhiên, đột ngột mở ra. Chỗ ảo diệu đó, khó giảng cho thông. Cho nên không thể nào lấy tay chỉ thẳng vào cõi thơ, rồi bảo đây là chân diện mục của nó…
Thơ phát ra từ những khổ lụy và những nguyện ước khơi vơi của cuộc tồn sinh, từ độ đó, Thơ đi vào những thảm họa hoành sinh của lịch sử. Từ buổi bình minh, Thơ vang vọng những lời tình tự thiết tha, từ tiếng chim thư cưu nơi cồn cát đến những đêm dài trằn trọc… Thơ dấn bước đi vào cuộc lữ…
Thơ phát ra từ cuộc lữ đọa đày rồi trở lại đọa đày cuộc lữ. Cuộc lữ là trường thể nghiệm lịch sử tồn sinh thảm họa của Thơ và Thơ mở rộng những phương trời lữ thứ. Quê hương nguyên thủy chỉ là những âm vang của lịch sử, vang dội ngân dài trong những phương trời viễn mộng. Cho nên đất của Thơ là đất trích, là những vùng đày ải, đường của Thơ là quán trọ, là những bước đường ngược gió. Mặn nồng nơi đất trích, lân la nơi quán trọ, cuộc thể nghiệm dây dưa với hằng triệu vấn vương và cũng là cuộc thể nghiệm cho khước từ tuyệt đối… Bởi cách điệu trầm trọng như thế, nên Thơ là phong vận tài hoa, đẹp như những cụm mây trời trong nắng sớm.”**
Tuệ Sỹ nói về cõi thơ Tô Đông Pha mà vô hình chung cũng dường như nói về cõi thơ của chính mình. Thật vậy, thế giới thi ca Tuệ Sỹ đơn sơ mà kỳ vĩ, bi ai mà hùng tráng, im lặng mà sấm sét, tĩnh toạ mà phiêu bồng. Đó là cõi thơ trầm thống, khốc quỷ kinh thần vọng vang lên từ một tâm hồn cô liêu cùng tuyệt với hồn thơ hoằng viễn, uyên mặc u ẩn, ngân dài trên giai điệu trầm tư lãng đãng:
Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về
Để cho trời thơ phiêu phưỡng, bước đi lồng lộng, độc hành ca giữa đỉnh cao và hố thẳm, làm kẻ rong chơi từ thuở hồng hoang hỗn độn, phiêu hốt tang bồng, rong rêu lêu lổng trong cuộc mộng trần sa:
Ta làm kẻ rong chơi từ hỗn độn Treo gót hài trên mái tóc vào thu Ngồi đếm mộng đi qua từng đọt lá Rủ mi dài trên bến cỏ sương khô
Vì lêu lổng mười năm trời nói mộng Ôm tình già quên bẵng tuổi hoàng hôn Một sớm nọ nghe chim buồn đổi giọng Người thấy ta xô dạt bóng thiên thần
Đất đỏ thắm nên lòng người hớn hở Đá chưa mòn sao lòng dạ trơ vơ Thành phố nọ bởi sương mù nắng quái Nên mười năm quên bẵng mộng giang hồ
Cuộc rong chơi phiêu bạt, lãng tử giang hồ vô tận đến nỗi quên bẵng hết những chuyện mộng mị chiêm bao, hồn thi nhân chuếnh choáng, xuất thần lâng lâng rồi chợt bỗng hóa thân thành cánh chim én mùa xuân bay qua dòng sông chiều tàn hoang vắng hay làm cánh bướm chao nghiêng, tung lượn xôn xao giữa mưa nắng phong trần:
Một con én một đoạn đường lay lất Một đêm dài nghe thác đổ trên cao Ta bước vội qua dòng sông biền biệt Đợi mưa dầm trong cánh bướm xôn xao
Bóng ma gọi tên người mỗi sáng Từng ngày qua từng tiếng vu vơ Mưa xanh lên tóc huyền sương nặng Trong giấc mơ lá dạt xa bờ
Người đứng mãi giữa lòng sông nhuộm nắng Kể chuyện gì nơi ngày cũ xa xưa Con bướm nhỏ đi về trên cánh mỏng Nhưng về đâu một chiếc lá xa mùa?
Năm tháng vẫn như nụ cười trong mộng Người vẫn đi như nước chảy xa nguồn Bờ bến lạ chút tự tình với bóng Mây lạc loài ôi tóc cũ ngàn năm
Ngàn năm rồi mà sao vẫn còn mãi lạc loài hỡi mây trắng hoằng viễn miên du? Nhà thơ chợt lặng thầm trầm tư thắc mắc, chẳng biết chiếc lá vàng úa rụng xa mùa kia sẽ về đâu giữa phong ba, bão loạn? Nhưng rồi bỗng thấy “năm tháng vẫn như nụ cười trong mộng” nên cứ để mặc nhiên cho dòng thơ trôi chảy qua nghìn bến bờ xa lạ nhòa nhạt hoang vu tận cuối bãi mịt mù. Trước cuộc dâu bể vô thường, đổi thay thời thế, thi nhân chạnh lòng trắc ẩn trong ngậm ngùi, khắc khoải, xót xa cho bao thân phận kiếp người phải hốt hoảng, kinh hoàng vượt trùng dương để tìm kế sinh tồn. Cưu mang nung nấu một nỗi niềm tâm sự mênh mông, không biết bày tỏ cùng ai nên chẳng biết nói gì hơn là để cho tiếng lòng ngân lên rưng rức những sầu thương vô hạn trước bao lượn sóng cuồng phong chìm nổi giữa sinh tử ba đào:
Một bước đường thôi nhưng núi cao Trời ơi! Mây trắng đọng phương nào Đò ngang neo bến đầy sương sớm Cạn hết ân tình nước lạnh sao?
Một bước đường xa xa biển khơi Mấy trùng sương mỏng nhuộm tơ trời Thuyền chưa ra bến bình minh đỏ Nhưng mấy ngàn năm tống biệt rồi
Cho hết đêm hè trông bóng ma Tàn thu khói mộng trắng Ngân hà Trời không ngưng gió chờ sương đọng Nhưng mấy nghìn sau ố nhạt nhòa
Cho hết mùa thu biệt lữ hành Rừng thu mưa máu dạt lều tranh Ta so phấn nhụy trên màu úa Trên phìm dương cầm hay máu xanh
Hình ảnh máu màu xanh bầm tím rơi xuống như mưa mù thảm đạm thật khiếp đảm làm sao, gợi ra bao cảnh xiêu hồn lạc vía ở địa ngục âm u mù tăm tối. Ơi chao! Địa ngục đó chẳng phải ở dưới lòng đất sâu kín kia mà lại ở ngay trên mặt đất trần gian này mới đâu đớn, rợn người khủng khiếp chứ! Từ khi chứng kiến biết bao oan khiên nghiệt ngã, biết bao khổ lụy đọa đày diễn ra một cách khốc liệt, tàn bạo, vô nhân đạo, vô lương tâm trên khắp mọi miền trên thế giới, nhà thơ nhạy cảm của chúng ta đã thấm thía một nỗi buồn vạn cổ sầu trong vô lượng xót thương:
Ôi nỗi buồn từ ngày ta lạc bước Cố quên mình là thân phận thần tiên
Cốt cách, phong vận của thi nhân vốn là ở cõi tự do tiêu sái, tiêu dao, bay bổng chất ngất một trời thần tiên huy hoàng tráng lệ. Thế mà cũng đành phải cố quên đi tất cả, vì ma quỷ A tu la tham sân si đã hiện hình như người, dùng bạo lực thâm độc, dốc hết tốc độ tham tàn, sân hận, si mê giáng xuống những tai ương thảm họa, trong cơn điên đảo loạn cuồng. Buồn quá phải không, buồn chết lặng quặn lòng đau tê tái giữa chập chùng bóng tối u mê:
Lửa đã tắt từ buổi đầu sáng thế Một kiếp người ray rứt bụi tro bay Tôi ngồi mãi giữa tha ma mộ địa Lạnh trăng tà lụa trắng trải rừng cây Khuya rờn rợn gió vèo run bóng quỷ Quỷ run run hôn mãi lóng xương gầy Khóc năn nỉ sao hình hài chưa rã Để hồn tan theo đốm lửa ma trơi Khi tâm tư chưa là gỗ mục Lòng đất đen còn giọt máu xanh ngời
Lời thơ đồng vọng âm khí quỷ mị Lý Hạ, thấp thoáng ma quái Bồ Tùng Linh. Một khi đối diện với quỷ ma giữa ban ngày thì hầu hết chúng ta đều hãi hùng khiếp sợ, nhưng ở đây, kỳ lạ thay, giữa phủ trùm bóng đêm đen tối rình rập thập tử nhất sinh, nhà thơ vẫn ngồi dạo cung đàn sinh tử một cách hào hùng vô uý, khi biết mình đang giáp mặt với đủ loại ma quân đang chập chùng vây khổn:
Bóng có rơi giật mình sửng sốt Mặt đất rung ma quỷ rộn phương trời Chút hơi thở mong manh trên dấu lặng Đêm huyền vi giai điệu không lời
Ơi chao! Một mình một bóng lặng thầm lẫm liệt, hiên ngang bất khuất, dấn bước lên đường dưới gầm trời bão loạn cuồng si. Đi về đâu hỡi Long Thọ, Mã Minh, Thế Thân, hỡi Tăng Triệu, Bồ Đề Đạt Ma, Huệ Năng, hỡi Lý Hạ, Tô Đông Pha, Vương Duy, hỡi Thiện Tài, Duy Ma Cật, Thắng Man, hỡi Suzuki, Nietzsche, Heidegger… giữa điêu tàn tan hoang trên mặt đất? Thân gầy như hạc như trúc nhưng hồn thơ vẫn vút bay lồng lộng chín tầng trời cao xanh bát ngát, rồi lặng hồn lắng nghe đồng vọng vang lên những lời kinh Hoa Nghiêm hùng tráng:
Trang phục bằng khôi giáp Nhẫn kiên cố Thanh gươm Trí trong cánh tay Đại bi Nguyện đấng Đại Hùng dũng mãnh hướng dẫn con Trực diện chiến đấu với ma quân
Với cánh tay Đại bi cầm thanh gươm Đại trí, thi nhân còn mặc thêm áo giáp Vô sanh pháp nhẫn nữa thì cũng thừa sức dấn mình vào địa ngục trần gian, trực diện đương đầu với đảo điên, chuyển hóa ma vương, quỷ sứ đang quờ quạng, loạn cuồng trong bóng tối vô minh. Cuộc thế trận sinh tử kinh hồn, một lần tận tường giáp mặt là một lần thấu triệt lẽ vô thường huyễn ảo quá đỗi mong manh trong cõi người ta và cũng chính từ đó, thi nhân mới phát Bồ đề tâm, phát đại nguyện thượng thừa, gánh vác lên vai vô số khổ lụy đoạn trường của nhân gian như chính lời Tuệ Sỹ tự nhắc nhở thì thầm: “Bồ đề tâm, đó là chí nguyện nóng bỏng của một chúng sinh tự thấy mình đang sống trong cảnh tối tăm giữa đọa đày khổ nhục, mong tìm một con đường sáng, không những để giải thoát bản thân khỏi những đe dọa áp bức mà còn là để giải thoát cho tất cả những người cùng cảnh ngộ. Bồ đề tâm, đó là ý chí kiên cường, bất khuất của một con người bị cột trói trên ngọn lửa rực cháy, bị chà đạp dưới những sức mạnh tàn khốc bởi tham vọng điên cuồng của chính ta và của một tập thể ma quái chung quanh ta. ‘Vui sướng gì, thích thú gì giữa ngọn lửa tam độc không ngừng thiêu đốt? Bị bao phủ trong bóng tối, sao không đi tìm bó đuốc?’ Không có tâm nguyện đó, không có ý chí đó, Bồ tát đạo chỉ là một con đường xa xôi, không tưởng, thần thoại hoang đường và Phật thừa không hơn một tiếng nói suông của một người mê sảng trong giấc ngủ ngày.”*** Thi nhân thấy như vậy bằng đôi mắt sâu thẳm rực lửa tam muội của chính mình nên vẫn thường thích nghi tùy duyên nhẹ bước vào ra giữa ta bà đây đó:
Đây khúc nhạc đưa hồn lên máu đỏ Bước luân hồi chen chúc cọng lau xanh Xô đẩy mãi sóng vàng không bến đỗ Trời lênh đênh ma quỷ rắc tro tàn
Vẫn khúc điệu tự ngàn xưa ám khói Ép thời gian thành rượu máu trong xanh Rượu không nhạt mà thiên tài thêm cát bụi Thì ân tình ngây ngất cõi mong manh
Ôi tiết nhịp thiên tài hay quỷ mị Xô hồn ta lảo đảo giữa tường cao Trưa dài lắm ta luân hồi vô thủy Đổi hình hài con mắt vẫn đầy sao
Từ vô thủy đến vô chung, cuộc luân hồi khởi sự từ đâu chẳng biết, chỉ hay rằng từ lúc nghe đồng vọng những trận gió phù trần tận chốn miền thiên thu vi vu thổi tới giữa vạn đại miên trường:
Đá mòn phơi nẻo tà dương Nằm nghe nước lũ khóc chừng cuộc chơi Nghìn năm vang một nỗi đời Gió đưa cuộc lữ lên lời viễn phương Đan sa rã mộng phi thường Đào tiên trụi lá bên đường tử sinh
Sinh tử là một việc trọng đại như thi nhân đã có lần nói tới trong lời tựa Vô môn quan của thiền sư Vô Môn, do Trần Tuấn Mẫn dịch: “Nơi đây, sa mạc vẫn cứ thiên thu cô tịch trong cơn gió bức bách của hư vô. Lẽ sống và lẽ chết cứ mãi bập bềnh trên hư ảo. Tâm hồn miệt mài nóng cháy, nhưng không cháy tan nổi những giấc mộng hãi hùng của hư vô và huỷ diệt.” Hư vô đã trở thành một thứ chủ nghĩa đang huỷ diệt mặt đất một cách trầm trọng đau thương, gây bao tang tóc não phiền, khiến thi sĩ nghe ra nghèn nghẹn tận đáy hồn:
Một ước hẹn đã chôn vùi tang tóc Cánh chim trời xa mãi giữa lòng sâu Nghe một nỗi hao mòn trong thoáng chốc Một mùa thu một vạn tiếng kêu gào
Khuya còn lạnh sương mù và gió lốc Thở hơi dài cát bụi cuốn chiêm bao Bên cửa sổ bên kia đồi sao mọc Một lần đi là vĩnh viễn con tàu
Đi để nhớ những chiều pha tóc trắng Mắt lưng chừng trông giọt máu phiêu lưu
Giọt máu nào phiêu lưu, lạc nẻo xa nguồn trôi tan tác lao đao trong nỗi hao mòn tàn tạ, trong cơn gió lốc kinh hồn rờn lạnh buốt xương da? Đi là đi mất, đi biền biệt, biến tan như sợi khói mỏng manh giữa bầu trời gió lộng không bao giờ trở lại nữa, nhưng vừa đi vừa ngoái nhìn để lắng nghe những tiếng gào kêu thống thiết của nhân gian, của thập loại chúng sinh đang quằn quại rên siết trong bao đổ nát đoạn trường, dâu bể tan hoang đầy thảm hoạ tồn sinh bức bách rợn ngần:
Tiếng ai khóc trong đêm trường uất hận Lời ai ru trào máu lệ bi thương? Hồn ai đó đôi tay gầy sờ soạng Là hồn tôi tìm dấu cũ quê hương
Ai tóc trắng sững sờ trên tuyết lãnh Bước chập chờn heo hút giữa chiều sương Viên đá nhỏ mấy nghìn năm cô quạnh Hồn tôi đâu trong dấu vết hoang đường?
Hoang đường nào còn in trên dấu vết lênh đênh? Tên tuổi nào cô liêu đến bạc trắng cả mái đầu ? Sầu thế kỷ điêu linh nào cứ ngân dài mãi trong não nề thê thiết:
Tang thương một dải tóc huyền Bãi dâu ngàn suối mấy miền hoang vu Gởi thân gió cuốn xa mù Áo xanh cát trắng trời thu muộn màng
Chênh vênh hoa đỏ nắng vàng Gót xiêu dốc núi vai mang mây chiều Tóc huyền loạn cả nguyên tiêu Lãng du ai ngỡ cô liêu bạc đầu
Cô liêu cô đơn, cô độc cô lữ là bước đi kỳ cùng của người thi sĩ dị thường. Bước đi chênh vênh, bên này cát bụi phù du, bên này bờ Thị Ngạn xao xác cọng lau gầy sậy yếu lặng phất phơ. Thở cùng hương trái đắng và hương nắng buồn trong mắt biếc nhiều diệu vợi uyên tư:
Gà xao xác gọi hồn ta từ quá khứ Về nơi đây cùng khốn với điêu linh Hương trái đắng mùa thu buồn bụi đỏ Ôi ngọt ngào đâu mái tóc em xinh
Từng tiếng lẻ loi buồn thống thiết Nghe rộn ràng từ vết lở con tim Từ nơi đó ta ghi lời vĩnh biệt Nắng buồn ơi là đôi mắt ân tình
Còi xa vắng giữa trưa nào lạc lõng Môi em hồng ta ước một vì sao Trưa dài lắm nhưng lòng tay bé bỏng Để vươn dài trên vầng trán em cao
Em ở đây chính là hình ảnh cuộc đời. Cuộc đời nếu nhìn từ chân đế, vốn là tuyệt trần chân mỹ, vốn là bất sinh bất diệt, vốn là Niết bàn, Tịnh độ vô lượng vô biên. Biết được điều đó, cho nên lòng thi nhân tự bao giờ vẫn khoan dung rộng lượng, thương yêu nhân loại trong vô ngôn lặng lẽ, trong tận cùng dung nhiếp âm thầm, chia sẻ với muôn loài vạn vật trần ai:
Ta sống lại trên nỗi buồn ám khói Vẫn yêu người từng khoảnh khắc chiêm bao Từ nguyên sơ đã một lời không nói Như trùng dương ngưng tụ ánh hoa đào Nghe khúc điệu rộn ràng đôi cánh mỏi Vì yêu người ta vói bắt ngàn sao
Vô biên vô lượng thương yêu con người tha thiết mà không bao giờ nói mình yêu thương gì hết cả, đó mới chính là thương yêu đích thực nhất. Phải chăng chỉ có những tấm lòng Bồ tát mới có thứ tình yêu vô điều kiện, vô phân biệt như vậy? Một tình yêu rộng rãi đại bi tâm nhập diệu, kết tinh thành bản tình ca mà thi sĩ thường lắng nghe từ hun hút biển ngàn, sông núi giữa trời đất mênh mang:
Ngọn gió đưa anh đi mười năm phiêu lãng Nhìn quê hương qua chứng tích điêu tàn Triều Đông hải vẫn thì thầm cát trắng Chuyện tình người và nhịp thở Trường Sơn
Mười năm nữa anh vẫn lầm lì phố thị Yêu rừng sâu nên khóe mắt rưng rưng Tay anh vói trời cao chim chiều rủ rỉ Đời lênh đênh thu cánh nhỏ bên đường
Mười năm sau anh băng rừng vượt suối Tìm quê hương trên vết máu đồng hoang Chiều khói nhạt như hồn ai còn hận tủi Từng con sông từng huyết lệ lan tràn
Mười năm đó anh quên mình sậy yếu Đôi vai gầy từ thuở dựng quê hương Anh cúi xuống nghe núi rừng hợp tấu Bản tình ca vô tận của Đông phương
Bản tình ca vô tận ấy, thi nhân vẫn nghe hoài rung ngân bất tuyệt trên những dặm dài long đong lữ thứ ở dọc đường quán trọ bơ vơ, bên làng mạc thôn ấp đìu hiu, cạnh ven rừng sơn dã hay quanh triền sông thị trấn tiêu điều hoặc trên ghềnh suối truông ngàn hoang vắng tịch liêu giữa những chiều sương khói chơi vơi bềnh bồng trống trải:
Em trải áo trên hoa rừng man dại Để hoa rừng nước cuộn biết yêu nhau Nhưng nước cuộn xóa đời ta trên bãi Để hoa rừng phong nhụy với ngàn lau
Em xỏa tóc cho cây khô sầu mộng Để cây khô mạch suối khóc thương nhau Ta cúi xuống trên nụ cười chín mọng Cũng mơ màng như phố thị nhớ rừng sâu
Ta chiến đấu nhọc nhằn như cỏ dại Thoảng trông em tà áo mỏng vai gầy Ôi hạnh phúc chợt thấy mình nhỏ bé Chép tình yêu trên trang giấy thơ ngây
Ta cúi xuống trên chân người bụi đỏ Để nhìn sâu trong vết tích hoang đường Ta sống lại trên môi cười rạng rỡ Để nhìn sâu trong ngọn nến tàn canh
Bằng ánh mắt từ tâm thâm cảm, nhà thơ bi tráng của chúng ta nhìn sâu vào lòng đời với nụ cười bao dung rạng rỡ. Đó là nụ cười tâm đạo như Krishnamurti: “Người có tình thương mới thật là tâm đạo, vì đạo chân chính không dựng trên tín ngưỡng giáo điều. Người có tình thương mới thật có đạo tâm, dẫu thương một người hay thương nhiều người. Tình thương là cái hiện tiền, cái tột cùng, cái tất cả, cái không thể đo lường được.” Thở cùng điệu hát bản tình ca nhã nhạc vang lừng trên núi rừng cô tịch hay giữa ngày hội lễ rộn ràng dưới phố thị xôn xao, nhà thơ đều im ắng lắng nghe trong từng khoảnh khắc lặng trầm, cảm nhận sâu xa vì biết chỉ là chiêm bao huyễn mộng trong khói bụi chập chờn:
Em mắt biếc ngây thơ ngày hội lớn Khóe môi cười nắng quái cũng gầy hao Như cò trắng giữa đồng xanh bát ngát Ta yêu người vì khoảnh khắc chiêm bao
Em là nàng thơ, là hình ảnh cuộc sống. Cuộc sống nếu nhìn từ tục đế thì đầy những thăng trầm, điêu linh khổ lụy từ nghìn xưa đến ngày nay. Khổ đế là sự thật thứ nhất mà Đức Phật đã chỉ bày cách đây gần ba nghìn năm rồi, giống như đại văn hào Hermann Hesse phát biểu : “Dù có bị đau đớn quằn quại, tôi vẫn yêu thương trần gian điên dại này.” Nhà thơ Tuệ Sỹ cũng vậy, cũng hết lòng thương yêu con người, dù kiếp người có tàn xiêu hiu hắt:
Ai biết mình tóc trắng Vì yêu ngọn lửa tàn Rừng khuya bên bếp lửa Ngồi đợi gió sang canh
Một hình một bóng cô đơn ngồi trên tuyệt đỉnh núi lạnh xanh rờn, sẵn sàng chờ đợi một điều gì có thể xảy đến, đôi mắt thi nhân cúi nhìn xuống cuộc đời đang chìm trong bóng tối mù sa mà cảm thương một nỗi u buồn xót xa sầu khôn tả, sầu cho kiếp người sớm nắng chiều mưa :
Ta không buồn còn ai buồn hơn nữa Người không đi sông núi có buồn đi Tia nắng mỏng soi mòn khung cửa Để ưu phiền nhuộm trắng hàng mi
Ta lên bờ nắng vỗ bờ róc rách Gió ở đâu mà sông núi thì thầm Kìa bóng cỏ nghiêng mình che hạt cát Ráng chiều xa ai thấy mộ sương dầm?
Ráng chiều xa bảng lảng bóng hoàng hôn nhân loại đang phủ trùm vàng vọt xuống khắp vùng sông núi Đông phương. Cho dẫu đường đời giăng bẫy đầy hầm hố cách ngăn, khó khăn trắc trở gì gì đi nữa, thi nhân vẫn nhận diện, tỉnh thức trước những sự kiện đang diễn biến, vì đã bừng ngộ thấy: “Ngay trong phiền não tức là Bồ đề, ngay trong những nguy hiểm đáng sợ hãi của sinh tử cũng chính là Niết bàn an ổn. Sợi dây bị tưởng lầm là con rắn, nhưng không phải hủy diệt sợi dây để diệt trừ ảo giác gây nên sợ hãi. Ngoài những gì vô thường được thấy, được kinh nghiệm bằng chính mắt, tai, mũi, lưỡi này, không tồn tại một thế giới chân thường, đại lạc hay đại ngã nào khác. Đó chính là thực tại Nhất nguyên tuyệt đối.”****
Phải chăng, đó là cái thấy bằng tuệ giác siêu việt? Thể hiện một tâm hồn thượng đẳng hoằng đại, thấu thị lẽ đời lý đạo vô vi. Một khi nhà thơ có cái nhìn tuệ giác đó rồi thì những sầu khúc thê lương kéo dài trong đợi chờ não nuột suốt mười lăm năm trường đọa đày viễn mộng như lời thơ tiên tri trước cuồng phong bão tố mịt mùng cũng chẳng hề dao động mà vẫn như như tự tại tự do vô ngại:
Tôi vẫn đợi những đêm xanh khắc khoải Màu xanh xao trong tiếng khóc ven rừng Trong bóng tối hận thù tha thiết mãi Một vì sao bên khóe miệng rưng rưng
Tôi vẫn đợi những đêm đen lặng gió Màu đen tuyền ánh mắt tự ngàn xưa Nhìn hun hút cho dài thêm lịch sử Dài con sông tràn máu lệ quê cha
Rồi trước mắt ngục tù thân bé bỏng Ngón tay nào gõ nhịp xuống tường rêu Rồi nhắm mắt ta đi vào cõi mộng Như sương mai như ánh chớp mây chiều
Chút thân bé bỏng dù có bị tù ngục lưu đày vì sự ngộ nhận của thế lực vô minh, nhưng ngay trong dầu sôi lửa bỏng, trong đêm dài sinh tử đó, thi nhân đã nhập thần đại thiền định, thấu thị tất cả vạn pháp “như sương mai như ánh chớp mây chiều”làm vỡ bùng rơi rụng bóng tối để rực ngời lên ánh phong quang, hiển lộ bóng vô cùng. Một câu thơ nghe bay dậy âm vang sấm sét từ trong kinh Kim Cang tràn đầy phấn chấn:
Nhất thiết hữu vi pháp Như mộng huyễn bào ảnh Như lộ diệt như điển Ưng tác như thị quán
Dịch thơ:
Hữu vi pháp hiện trùng trùng Như huyễn như bọt nước tung vỡ rồi Như ánh chớp như sương rơi Thường quán như vậy nhẹ vời phiêu nhiên
Trùng trùng vạn pháp muôn loài vạn vật núi sông rừng biển, thiên nhiên vũ trụ và con người đều như mộng như huyễn, như bọt nước như sương rơi… Phải tận tường thường xuyên thấy rõ ràng như thế như Tuệ Sỹ cũng nhiều lần nói: “Tất cả giáo pháp của Phật đều hướng đến diệt trừ tự ngã. Tôi đang tồn tại, đó là một hiện thực, đồng thời cũng là một ảo ảnh. Đau khổ là một sự thực. Cái tôi đang đau khổ ấy lại là ảo ảnh. Cái ta ảo ảnh được bọc trong vỏ trứng vô minh, nó được định hình bằng vọng tưởng thành thân thể ta, linh hồn ta, sở hữu của ta, tài sản của ta, cho đến núi sông này là của ta, tài sản này là của ta, ta là tài sản này, sông núi này là của ta, ta là sông núi này. Cho nên, khi tán gia bại sản, khi sông núi sụp đổ, cái ta vọng tưởng cũng sụp đổ thì có kẻ trầm mình xuống sông hoặc treo cổ trên cành. Vì thế, khi nghe nói cái ta này là ảo ảnh, là không thực, người nghe có thể kinh hoàng như nghe sét đánh ngang tai. Tiếng sét đó là từ Kim Cang Bát Nhã. Duy có điều, mọi người đều mù, chỉ thấy bóng tối, mọi người đều điếc, chỉ nghe tiếng vo ve. Làm sao có thể thấy cái ta chỉ là ảo ảnh? Làm sao nghe được tiếng sấm từ kinh Kim Cang ? Với những ai có mắt để thấy, có tai để nghe, kinh Kim Cang sẽ chỉ đường để đối diện với ảo ảnh của cái tôi và chỉ cách vận dụng kim cang xử đập vỡ vỏ trứng vô minh bao bọc tự ngã.”
Khi thi nhân lãnh hội, quán chiếu sâu xa, đã thấy tất cả vạn pháp như ảo ảnh, mộng huyễn như vậy rồi thì hoát nhiên hiển lộ, bừng sáng lên một phương trời Tánh Không lồng lộng không ngằn mé, cho nên hết thảy mọi khổ nạn điêu linh trầm thống đều chuyển hóa thành lửa tịch mịch, tự nhiên đốt cháy hết những kinh hoàng khủng khiếp của địa ngục trần gian và sầu khúc thê lương trở thành “Bản tình ca vô tận của Đông phương” thâm thúy dưới ngàn trăng sao xao xuyến lặng bồi hồi:
Nỗi nhớ đó khát khao luồn sợi tóc Vòng tay ôm cuộn khói bâng khuâng Uống chưa cạn chén trà sương móc Trên đài cao em ngự mấy tầng
Lên cao mãi đường mây khép chặt Để xoi mòn ảo tượng thiên chân Ồ, nguyệt quế ! Trắng mờ đôi mắt Ồ, sao Em? Sao ấn mãi cung đàn?
Giai điệu cổ thoáng buồn u uất Xưa yêu Em xao động trăng ngàn
Từ xưa đến nay vẫn điệp khúc cung đàn trường ca đại bi tâm trầm lặng ngân rung trên cung bậc Bất nhị giữa cõi người ta vô thủy vô chung. Chúng ta hãy lắng nghe, thưởng thức những giai điệu tài hoa của nhạc sĩ tế nhị cảm giao hòa qua tiếng đàn dương cầm vi vút dưới ngàn trăng:
Ta nhận chìm thời gian trong khóe mắt Rồi thời gian ửng đỏ đêm thiêng Đêm chợt thành mùa đông huyễn hoặc Cánh chim bạt ngàn từ quãng Vô biên
Từ đó ta trở về Thiên giới Một màu xanh mù tỏa Vô biên Bóng sao đêm dài vời vợi Thật hay hư chiều nhỏ ưu phiền
Chiều như thế cung trầm khắc khoải Rát đầu tay nốt nhạc triền miên Ôm dấu lặng nhịp đàn đứt vội Anh ở đâu khói lụa ngoài hiên?
Ngoài hiên chiều phất phới bay qua những vệt nắng nhạt nhòa phôi pha trong bóng tà huy thấp thoáng lan dần nhẹ tỏa xuống mềm mại những sợi khói mênh mang:
Nắng lụa đỏ phủ tường rêu xám bạc Lá cây xanh nghiêng xuống mắt mơ màng Người có biết mặt trời kia sẽ tắt? Ta yêu người từ vết rạn thời gian
Thời gian và không gian trộn lẫn hòa quyện tan vào trong cùng một tấu khúc rung cảm, bồng tênh lênh láng dạt dào du dương, vi vu vi vút nguồn cảm xúc khôn dò của người em thi ca quá tuyệt diệu trong tự tình khúc rung động thâm thiết lặng huyền hòa:
Tự hôm nào suối tóc ngọt lời ca Tay em rung trên những phím lụa ngà Thôi huyễn tượng xô người theo cát bụi Vùng đất đỏ bàn chân ai bối rối Đạp cung đàn sương ứa đọng vành môi Đường xanh xanh phơn phớt nụ ai cười Như tơ liễu ngại ngùng lay nắng nhạt Lời tiễn biệt nói gì sau tiếng hát Hỏi phương nào cho nguyện ước Trường Sơn Lời em ca phong kín nhụy hoa hờn Anh trĩu nặng núi rừng trong đáy mắt Mờ phố thị những chiều hôn suối tóc Bóng ai ngồi so phím lụa đàn xưa
Tiếng đàn bất tuyệt miên man réo rắt lặng hồn dưới bàn tay nghệ thuật phiêu diêu, dìu dặt vọng vang bàng hoàng qua những điệp khúc cho dương cầm thâm tình thấm thiết mãi ngân nga từ cõi mộng không lời. Tiếng đàn vô ngôn rười rượi dưới vầng trăng gầy tịch nhiên soi chiếu trong vườn sương khuya mờ ảo lung linh ngời lấp lánh long lanh:
Nhà đạo nguyên không khách Quanh năm bạn ánh đèn Thẹn tình trăng liếc trộm Bẽn lẽn núp sau rèm
Yêu nhau từ vạn kiếp Nhìn nhau một thoáng qua Nhà đạo nguyên không nói Trăng buồn trăng đi xa
Chao ơi! Yêu thương nhau đã từ muôn triệu kiếp rồi, hỡi vầng trăng thanh thoát vàng hoa ảo diệu như nàng thơ gầy yểu điệu, lặng lẽ chia phôi. Thôi buồn làm chi nữa phải không? Thôi cứ thản nhiên để cho hồn thơ dệt phím nhạc ngàn đời những tơ đàn diệu âm trầm bổng mênh mang tỏa ngát mộng xanh huyền:
Tóc em bay trong sương chiều khói biếc Dệt tơ trời thành khúc hát bâng khuâng Tình hay mộng khi Trường Sơn xa hút Đến bây giờ mây trắng gởi tin sang
Hồn tôi đi trong rừng lang thang Cọng lời ru từ ánh trăng tàn Mắt em nhỏ ngại ngùng song cửa Nghe tình ca trên giọt sương tan
Gót chân em nắng vàng xưa viễn phố Những ngón hồng ngơ ngác giữa đường chim Ôi ta nhớ như đêm dài thượng cổ Sợi tóc mềm lơi nhịp hát trong tim
Trong tim hồn rộn ràng bao nhịp hát hoang sơ từ thượng cổ vọng về, nghe như điệu hát Trang Tử dặt dìu Tiêu dao du, bên bờ sông xa mù Dương Tử, hay như lời thơ ngân nga của Milarepa Gởi lại trần gian trên tuyệt đỉnh ngàn cao Hy Mã Lạp Sơn chập chờn sương khói tỏa thiên thu hoặc như khúc hát nghêu ngao Phóng cuồng ca của Tuệ Trung Thượng Sỹ, trong cơn xuất thần nhập diệu, đại hòa điệu chơi cùng nhật nguyệt, thiên địa tuần hoàn.
Thế là, bát ngát bồng tênh trên ngõ về im lặng, tiếng thơ trầm hùng Tuệ Sỹ như ánh trăng huyền nguyên thủy chiếu diệu xuyên qua ngút ngàn bóng tối vô minh làm bừng hiện rực ngời lên trên cung bậc ngôn ngữ thi ca đầy sáng tạo và sáng tạo tân kỳ như Tuệ Sỹ từ thuở thanh xuân đã nghe tận thần hồn: “Ngôn ngữ không còn là một hình ảnh héo hắt của Thực tại sai biệt và sai biệt. Nó không đi chơi vơi trên Thực tại mà đóng vai trò truyền thông như tiếng gọi từ trên một đỉnh trời Tuyệt đối vô tri, từ trên một đỉnh núi ngàn đời bất khả xâm phạm, luôn luôn thách đố bước tiến của con người. Nó đánh mất đi cái cụ thể nghèo nàn trong tầm mắt thường nghiệm của phàm phu để dẫn đến một chân trời rực rỡ của sáng tạo.”*****
Con đường mây trắng thênh thang sáng tạo đã vượt qua những mộng tàn năm tháng cũ, dù vẫn còn chút dư hương của một thời đọa đày viễn mộng u sầu:
Màu nắng xế ôi màu hương tóc cũ Chiều chơ vơ chiều dạt mấy hồn tôi Trời viễn mộng đọa đày đi mấy thuở Mộng kiêu hùng hay muối mặn giữa trùng khơi
Vén thanh sắc đổ mù khơi về đối diện Cuộc ân tình lơi lả vội chia phôi Trăng nằm xuống duỗi dài hai bến hẹn Một dòng sông vồn vã động chân trời
Ơi chao! Đã chia phôi từ biệt cuộc ân tình nhân thế từ dạo đó, kể từ ngày như Nguyễn Du xa xưa từng chứng kiến giữa trần ai: “Trải qua một cuộc bể dâu. Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.” Nhà thơ Tuệ Sỹ cũng đi về theo thể điệu phiêu nhiên, quy hồi vĩnh cửu với nụ cười sâu lắng tự tri:
Khói ơi! Bay thấp xuống đi Cho ta nắm lại chút gì thanh xuân Ta đi trong cõi Vĩnh hằng Nhớ tàn cây nhỏ mấy lần rụng hoa
Vĩnh hằng chẳng ở đâu xa mà ngay trong từng sát na hiện tại, ở đây và bây giờ, ngay trong tiếng ve sầu hay từng nhịp thở nhẹ nhàng giữa lòng phố bụi lao xao:
Ve mùa hạ chợt về thành phố Khóm cây già che nắng hoang lương Đám bụi trắng cuốn lên đầu ngõ Trên phím đàn lặng lẽ tan hương Tiếng ve dội lăn tăn nốt nhỏ Khóc mùa hè mà khô cả đại dương
Ngôn ngữ thi ca thường chứa nhiều ẩn dụ, tượng trưng hàm súc như vậy, chúng ta tha hồ suy diễn, lãnh hội, cảm nhận theo đủ cách điệu riêng tư của mình thôi. Đọc thơ Tuệ Sỹ là rong rêu phiêu lãng bước dạo chơi vào một thế giới diêu mang kỳ ảo vô vàn:
Một ngày chơi vơi đỉnh thác Nghe bồn chồn tiếng gọi hư không Giai điệu nhỏ dồn lên đôi mắt Mặt hồ im ánh nước chập chờn Mặt hồ im tảng màu man mác Ảnh tượng mờ một chút sương trong Quãng im lặng thời gian nặng hạt Tôi nghe đời trong tấu khúc Thiên hoang
Tấu khúc Thiên hoang vang rền như Chứng đạo ca xuất thần nhập cốt của thiền sư Huyền Giác hay như Hòa tấu khúc thứ 9 của Beethoven đồng vọng trong tận đáy lòng Không Tánh vô biên, khiến cho thi nhân tự mình thưởng thức hương vị cô liêu của cuộc sống diệu thường:
Tự tâm tự cảnh tự thành chương Tự đối bi hoan diệc tự thưởng
Dịch thơ:
Cô độc cảnh tâm thơ tự xuất Tự ngắm buồn vui tự thưởng thức
Nỗi cô đơn của Tuệ Sỹ cùng tương ứng với triết gia vĩ đại Nietzsche: “Hỡi cô đơn! Quê hương của ta! Ôi giọng nói của mi nói với ta nghe sao mà dịu dàng hân hoan đến vậy! Chúng ta không thắc mắc nhau điều gì, không than thở nhau điều gì, thong dong chúng ta cùng vượt qua những cánh cửa mở rộng.” Đồng điệu với thi hào Rainer Maria Rilke: “Cô đơn, nỗi cô đơn nội tâm mênh mang, đó là điều duy nhất cần thiết đối với kẻ sáng tạo, nhưng tất cả những gì một mai trở thành khả thể cho bao người thì ngay từ bây giờ, kẻ cô đơn bắt đầu đổ nền xây móng bằng hai bàn tay hắn, bàn tay rất ít sai lầm. Bởi vậy, hãy yêu thương nỗi cô đơn và hãy chấp nhận chịu đựng nỗi khổ đau do nó gây ra với lời hoan ca mỹ lệ.” Đồng cảm với thiền sư Không Lộ:
Cắm cột am cao đất rắn rồng Vi vu thân thế tuyệt đời ông Đỉnh non có buổi leo lên thẳng Gầm dài một tiếng lạnh hư không
Tiếng hú tiếng gầm sấm động của thiền sư Không Lộ từ thế kỷ XI vẫn còn vang dội mãi đến hôm nay. Chẳng hay có còn ai lắng nghe được không như lắng nghe tiếng vượn hú u trầm thâm thiết trong rừng sâu rú thẳm của Tuệ Trung Thượng Sỹ:
Dù chốn lầu son hay sơn lâm Nơi nào cũng vậy vẫn an tâm Nhân gian đều thấy ngàn non sáng Ai lắng nghe ra tiếng vượn trầm
Ở bất cứ nơi nào dù giữa heo hút rừng sâu hay ngay chốn phồn hoa đô hội, cung vàng điện ngọc đi chăng nữa thì người tự tri tự ngộ, kẻ sáng tạo đích thực vẫn tiêu dao vô ngại. Cái quan trọng không phải ở hình thức cư xử bên ngoài mà là bản tánh thanh tịnh sâu kín, là nguồn tâm thâm diệu bên trong lòng mình đó thôi.
Nỗi cô đơn trầm hậu đã xuất thần cất lên tiếng thơ ngân dài sâu thẳm lâm ly, thi nhân đã thưởng thức được hương vị cô liêu của cuộc sống. Thế thì tuyệt cùng ẩn ngữ thi ca Tuệ Sỹ là gì? Làm sao chỉ ra được, khi ngôn ngữ cứ lấp lánh ẩn hiện trong ánh sáng phát ra từ tâm cảm thông tuệ siêu phàm? Có ai nắm giữ được những tiếng dương cầm âm thanh thánh thót phiêu diêu, dịu dàng vang ngân bất tận từ giữa lòng bàn tay của người nghệ sĩ tài hoa kia?
Chia lìa, chia ly, chia tay hay buông bỏ, buông xả hết thảy mọi sự thị phi, hỷ nộ ái ố dưới thành phố Sài Gòn hỗn độn, ồn động đủ thứ phù hoa, đã rời khỏi Thị Ngạn Am ở Già Lam gần ba năm nay rồi. Bây giờ Tuệ Sỹ sống lang thang đúng nghĩa lang thang, hoàn toàn rỗng rang vô sự. Bước đi vô sở trú, vô sở cầu, vô sở đắc, lặng lẽ mở ra cuộc lữ tự do tự tại giữa đang là. Đang là theo thể điệu Krishnamurti: “Cái mà Đức Phật gọi là Niết bàn, Đức Chúa gọi là Thiên đàng, chính cái ấy tôi gọi là cái đang là Cuộc sống.” Không còn chạy theo nắm bắt bất cứ một cái gì nữa cả, dù đó là Phật, là Tổ như thiền sư Lâm Tế đã phát biểu hùng hồn: “Con người vô sự là người đã dừng lại, không còn dính mắc vào một lý thuyết, một giáo pháp, một đường lối nào nữa hết. Con người vô sự có tự do, có khả năng sống hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại, không bị bất cứ một cái gì có thể kéo đi, kể cả lý tưởng độ sinh cứu đời. Bởi vì lý tưởng độ sinh cứu đời cũng có thể bắt mình chạy đi tìm cầu, bỏ mất giây phút hiện tại, bỏ mất cái tâm sáng chói và sáu đạo thần quang đang có mặt, vốn là nguồn gốc của tất cả chư Phật.”******
Lẫn vào cảnh giới ta bà “hòa kỳ quang đồng kỳ trần” như Lão Tử hòa cùng ánh sáng nhập cùng cát bụi phiêu du, Tuệ Sỹ thong dong giống như thiền sư thi sĩ Basho phiêu bồng khắp xứ hoa Anh Đào Nhật Bản làm thơ và làm thơ giữa ngày tháng lưu linh cùng sương khói bồng bềnh.
Trên ngõ về im lặng, thi nhân thường ẩn mình trên núi rừng Đamri hoang vắng tịch liêu nằm phiêu dật giữa đất trời thanh lương hùng vĩ. Tuy nhiên cũng có lúc tiêu dao với mây trắng lặng lờ ở thung lũng Madagoui huyền ảo, lúc thì lên đồi Phương Bối ở vùng Đại Lão, Bảo Lộc uống trà với nhà thơ Nguyễn Đức Sơn, khi thì rờn lạnh theo sương ngàn bồng tênh xuôi về phố hoa Đà Lạt, ghé lại bên cầu sông nước Đại Ninh cùng dăm ẩn sĩ tâm tình, rồi thênh thang xuống miền biển khơi Vạn Giã, Nha Trang muôn trùng bát ngát… Hát khúc vô thanh siêu thoát làm hồi phục những tiêu điều, hiu hắt dọc khắp ven đường thi sĩ bước đi qua. Đi bộ và chỉ đi bộ bằng đôi chân trần đẫm gió sương dãi dầu mưa nắng:
Đi để nhớ những chiều pha tóc trắng Mắt lưng chừng trông giọt máu phiêu lưu
Không phải phiêu lưu khám phá những phương trời viễn mộng như đại thi hào Tô Đông Pha thuở nào heo hút bên Trung quốc xa mù:
Mù tỏa Lô Sơn sóng Triết Giang Khi chưa đến đó hận muôn vàn Đến rồi về lại không gì lạ Mù tỏa Lô Sơn sóng Triết Giang
Mà cuộc lữ phiêu lưu, phiêu bồng không mục đích, không chỗ trụ, không mong cầu, vì thi nhân biết rằng, chẳng từ đâu đến cũng chẳng đi về đâu “vô sở tòng lai diệc vô sở khứ” đấy thôi.
Ơi chao! Giữa thế kỷ XXI này mà vẫn còn một con người tự nguyện đi bộ trên mặt đất cằn khô này thì quả nhiên là chuyện hy hữu hiếm hoi. Đi một cách lặng lẽ vô danh, tuyệt nhiên không ai biết tới. Dọc đường mật hạnh, hành cước vân du, có nhiều người dân thường chưa hề biết Tuệ Sỹ là ai, cứ ngỡ đó là gã hành khất, thất cơ lỡ vận, bởi thi nhân ăn mặc sơ sài áo vải sờn vai bạc màu mưa nắng, đội nón cời với gậy trúc trên tay. Một hình ảnh đẹp nên thơ, gợi liên tưởng đến những dị nhân hay Bồ tát, tiên ông hóa hiện trong truyện cổ tích, thần thoại hoang đường.
Phương trời lưu viễn chơi rong, thõng tay vào chợ thở cùng điệu thở nhập cuộc sáng tạo quá đỗi thi ca. Hòa cùng nhịp bước lãng du của người thi sĩ kỳ tuyệt đó, tôi chợt bỗng nghe văng vẳng lời nói của Phạm Công Thiện, một người bạn thâm tình chí cốt của Tuệ Sỹ: “Một con người vừa là thi sĩ vừa là thiền sư, vừa là nhà hành động nhập thế với tinh thần vô công dụng hạnh của bậc Bồ tát. Hành động tích cực, mãnh liệt toàn triệt mà vẫn giữ cảm thức viễn ly và viễn mộng, vì không tham vọng, ích kỷ mù quáng, cho nên nuôi dưỡng cảm thức viễn ly, vì không bị kẹt dính vào tham sân si của thế tục, cho nên mới hàm dưỡng viễn mộng, Tuệ Sỹ là một trong số ít đạo sĩ thi nhân với pháp khí phi thường là Trí tuệ Bát nhã cùng với lòng Đại bi thơ mộng, Tuệ Sỹ là một trong số ít thể hiện được ý nghĩa trọn vẹn của ý thức chính trị toàn diện, ý thức hành động Bi Trí Dũng, dẫn đường soi sáng Thể mệnh của Sử tính quê hương…
Thơ Tuệ Sỹ chính là tiếng thơ đổi giọng của một loài chim bay từ cõi xa xưa của vô biên tế kiếp trong lòng sâu thẳm của Tính mệnh quê hương…
Anh không thể cảm thơ người ta thì anh hãy im lặng, còn nếu cảm được thì anh hãy tha thiết ca ngợi, đừng e dè giữ gìn gì cả. Không nên có những kẻ phê bình thơ mà chỉ nên có những người ca tụng thơ. Thơ là của riêng từng người, không có ai làm thầy ai cả.”
Bắt chước Phạm Công Thiện, tôi cũng muốn ca ngợi tán thán Tuệ Sỹ, một thiền sư thi sĩ vĩ đại, một trái tim Kim Cang bất hoại vô úy nhưng ngợi ca làm chi nữa, khi mà tiếng thơ của thi nhân đã làm chấn động rung chuyển cả thế giới hoàn cầu và lan tỏa lạ thường ra khắp vũ trụ mười phương rồi. Thôi thì chỉ xin đọc tặng bài thơ khi một chiều bữa nọ, bất ngờ trùng ngộ thi nhân đang ẩn cư ở vùng biển xanh Vạn Giã, trong một ngôi cổ tự rêu phong trầm tịch mịch:
Những phương trời viễn mộng đi
Thi ca tư tưởng bước kỳ ảo qua
Đọa đày một thuở ta bà
Nỗi đau rực cháy thấy ra tột cùng
Ôi! Giấc mơ Trường Sơn rung
Rúng hồn tim máu chợt bùng vỡ mơ
Kinh thiên động địa sững sờ
Đâu chân diện mục của thơ với thiền?
Mặc như lôi ngồi tịch nhiên
Nghe ban sơ vọng ngân huyền diệu âm
Những điệp khúc cho dương cầm Từ vô tận ý vang thâm thiết niềm

Tâm Nhiên

CHÚ THÍCH
* Bùi Giáng. Đi vào cõi thơ. Ca Dao xuất bản, Sài Gòn 1969
** Tuệ Sỹ. Tô Đông Pha những phương trời viễn mộng. Ca Dao xuất bản, Sài Gòn 1973
*** Tuệ Sỹ. Thắng Man giảng luận. Phương Đông xuất bản 2012
**** Tuệ Sỹ. Huyền thoại Duy Ma Cật. Phương Đông xuất bản 2007
***** Tuệ Sỹ. Triết học về Tánh Không. An Tiêm xuất bản. Sài Gòn 1970
****** Lâm Tế ngữ lục, Người vô sự. Nhất Hạnh bình giảng. Lá Bối xuất bản 2000
Thơ Tuệ Sỹ (chữ nghiêng), trích trong các tác phẩm:
- Giấc mơ Trường Sơn. An Tiêm xuất bản, Paris 2002
- Những điệp khúc cho dương cầm. Phương Đông xuất bản 2009

HÌNH ẢNH

Hiệp và Hoa

Rùa vàng nói chuyện với anh Công nguyễn USA




Thức và Quy chăm chú xem hình

Hình ai đẹp vậy ta? Anh Thành liếc trộm

Ấm áp mùa đông


Thứ Ba, tháng 12 17

CÔNG DỤNG SỮA ĐẬU NÀNH

Cùng khám phá những công dụng làm đẹp "thần kỳ" của loại thức uống ngon - bổ - rẻ đã quá đỗi quen thuộc với phái đẹp.

Bạn có biết, sữa đậu nành từ lâu đã được coi như 1 loại "thần dược" dành riêng cho phái đẹp. Đó là bởi, nó không chỉ là loại thức uống ngon - bổ - rẻ cho cả nhà, mà chị em cũng "nhờ cậy" được sữa đậu nành rất nhiều ở khoản đẹp da mượt tóc. Trong sữa đậu này có chứa thành phần dưỡng chất dồi dào như canxi, axit amin, vitamin A, E, PP, B12... Đặc biệt, phải kể đến thành phần "đinh" isoflavone có tác dụng đẩy lùi tế bào lão hóa, mang đến vẻ đẹp căng tràn cho nữ giới. Để hiểu tường tận hơn, hãy cùng chúng tôi khám phá những "bí mật" làm đẹp của sữa đậu nành ngay sau đây nhé!

1. Sữa rửa mặt xóa nếp nhăn

Cách làm đơn giản nhất đối với sữa đậu nành là dùng rửa mặt mỗi sáng sau khi pha loãng với nước ấm theo tỉ lệ 1:1. Cách làm đơn giản này sẽ giúp bạn giảm đáng kể lượng mụn đầu đen trên mặt, dưỡng trắng và "là phẳng" các vết rạn chân chim quanh vùng mắt. Đặc biệt hơn, đây cũng là 1 trong những cách được khuyên dùng trong mùa Thu/Đông sắp tới để dưỡng ẩm cho da trong tiết trời khô hanh cuối năm.

Trẻ hoá cho da & tóc với "thần dược" sữa đậu nành 1
2. Sữa tắm trắng da

Bạn trộn khoảng 200ml sữa đậu nành cùng 1 thìa cafe tinh dầu oliu rồi massage hỗn hợp lên da trong khoảng 5 - 10 phút. Sau đó tắm lại bằng nước ấm vừa phải. Các dưỡng chất sẽ thẩm thấu và mang đến cho bạn làn da hồng hàng, sáng trắng. Không những vậy, với các nguyên liệu khá lành tính, bạn có thể thực hiện hằng ngày và nhanh chóng thấy tác dụng sau 2 tuần.

Trẻ hoá cho da & tóc với "thần dược" sữa đậu nành 2

3. Mặt nạ sáng da

Để có công dụng nhanh chóng hơn, bạn có thể dùng 1 chiếc khăn mặt mỏng thấm sữa đậu nành nguyên chất rồi đắp lên mặt. Để trong khoảng 15 - 20 phút rồi rửa lại bằng nước mát. Thực hiện 2 lần/tuần, bạn sẽ cảm nhận được làn da căng mịn và sáng lên từng ngày.

Trẻ hoá cho da & tóc với "thần dược" sữa đậu nành 3

4. Mặt nạ giảm mụn

Không chỉ sử dụng phần nước cốt của đậu nành, đối với phần bã đậu sống sau khi xay nhuyễn và vắt lấy nước, bạn có thể dùng làm mặt nạ đắp lên mặt và thư giãn trong 15 phút rồi rửa lại bằng nước mát. Cách này cũng sẽ mang đến cho bạn làn da sạch mụn và làm mờ nhanh chóng các vết thêm do mụn để lại.

Trẻ hoá cho da & tóc với "thần dược" sữa đậu nành 4

5. Làm dày tóc mỏng

Đối với những cô nàng đang ngày đêm khổ sở với mái tóc mỏng manh và thiếu sức sống của mình, thì sữa đậu nành chính là "chìa khóa vạn năng" mang đến cho bạn vẻ bồng bềnh của các thiên thần Victoria's Secret. Để làm được điều đó, sau khi gội đầu, bạn dùng sữa đầu nành xả lại tóc và massage da đầu trong khoảng 5 - 10 rồi gội lại bằng nước sạch. Cách làm đơn giản và rẻ tiền này không những nhanh chóng kích thích mọc tóc mà còn "khuyến mãi" thêm cho bạn 1 mái tóc bóng khỏe đấy nhé!

Trẻ hoá cho da & tóc với "thần dược" sữa đậu nành 5

Thứ Hai, tháng 12 16

Sự tích Ông Già Noel

Hình ảnh quen thuộc nhất trong mùa lễ Giáng sinh là ông già Noel mà ai cũng biết. Mọi người, từ người lớn đến trẻ nhỏ, ai ai cũng đều biết và yêu mến ông lão hiền từ, vui tính này. Ông chính là người được trao gửi những ước mơ của biết bao thế hệ trẻ thơ.

Trong tâm tưởng của mọi người, ông mặc bộ quần áo đỏ, đội chiếc mũ chóp nhọn cũng màu đỏ kiểu xứ lạnh, đi đôi giầy cao cổ đen, mái tóc bạc phơ và râu trắng như tuyết. Thế nhưng ít ai biết rằng ông già Noel chính là hiện thân của thánh Nicolas - một vị thánh nổi tiếng bởi lòng nhân hậu vô biên. Nicolas có từ thế kỷ thứ 3 sau Công nguyên. Ông chào đời tại quận Patara thuộc phần đất của Thổ Nhĩ Kỳ, sau khi được phong thánh mới có tên là Nicolas. Trong tháng 12 nhưng phải phân biệt Nicolas và ông Weihnachtsmann.
Ông già Noel và túi quà đầy ấp
Ông già Noel và túi quà đầy ấp

Từ đời nữ Hoàng Thephanu gốc Hy Lạp, là vợ Hoàng Ðế Otto II của Ðức, muốn nhớ lại thánh Nicolas. Nên từ năm 1555 tại Ðức nguời ta may áo quần màu đỏ, đội tóc trắng, mang râu, giả làm Nikolas hình ảnh Nikolas được xuất hiện trở lại với ý nghĩa mang tình thương đến với mọi người.
Ông thường chui qua ống khói để vào nhà
Ông thường chui qua ống khói để vào nhà

Ông già Noel theo tiếng Pháp Père de Noel, tiếng anh Santa Claus, tiếng Hà Lan là Sinterklass.Theo tài liệu trước khi được phong thánh ông Nicolas là người giàu có, nhân từ. Vào một đêm Giáng sinh, ông được Thiên chúa mặc khải, đem hết của cải riêng mình ban phát cho những người nghèo khổ và trẻ con. Ông biến những giấc mơ của họ thành sự thực, bằng cách mua quà bánh để biếu những kẻ nghèo khổ, mang lại cho họ những sung sướng bất ngờ.

Chúng treo vớ ở đầu giường với niềm tin là ông già Noel sẽ bỏ quà chúng mơ ước vào đấy khi chúng ngủ quên.
Có tài liệu cho biết, ông già Noel được phong Giám mục vào thế kỷ thứ 3 sau Công nguyên. Sau khi được phong thánh, Nicolas trở thành người đỡ đầu của các thương nhân, thủy thủ và trẻ con. Ông qua đời vào ngày 6/2 (không rõ năm)
Ngày 6/12 hàng năm để tưởng nhớ lại hình ảnh người đạo đức, giàu lòng nhân từ bác ái . Hình ảnh người mặc áo màu đỏ của ông Nikolaus thuở nào, đến từng nhà có trẻ con thăm viếng, chia bánh kẹo trong đêm Giáng Sinh.
Ông đem niềm vui đến cho các bé bằng các món quà đáng yêu
Ông đem niềm vui đến cho các bé bằng các món quà đáng yêu

Ngày nay, hình tượng ông già Noel không chỉ đơn giản là hình ảnh thân thuộc gắn liền với mùa lễ hội này mà ông còn là biểu trưng cho tình nhân ái và lòng thương trẻ. Người ta hoá thân thành ông trong hầu hết các chương trình từ thiện mùa cuối năm.
Theo truyền thuyết ông già Noel trở lại trần gian, theo đường ống khói lò sưởi vào mỗi gia đình, để bánh kẹo vào trong những chiếc vớ mà trẻ em treo gần giường ngủ hay lò sưởi, đem lại giấc mơ đẹp với tuổi thơ trong đêm Giáng Sinh.
Bởi thế Cha mẹ thường mua quà bỏ vào đôi vớ để cạnh lò sưởi, lúc trẻ con thức dậy vui mừng với món quà của ông già Noel tặng. Phong tục này khuyến khích vì khuyên trẻ em nên làm điều thiện để được ông già Noel tặng quà. Khái niệm về ông già Noel giờ đã lan truyền khắp mọi nơi trên thế giới. Trong gia đình, cha mẹ thường là người thay ông mua quà bỏ vào đôi tất cạnh lò sưởi của con mình. Phong tục này được khuyến khích vì nó dạy trẻ em ngoan ngoan, chăm học để được ông già Noel tặng quà. Và cũng là một điều ý nghĩa nhất trong ngày giáng sinh.

Tuy nhiên có thể ở đây có nhiều bạn chưa biết về truyền bộ quần áo của ông già Noel. Đó là một câu chuyện có thật.
Khi đầu ông Noel chưa có một bộ áo quần đặc trưng màu đỏ như giờ. Vì ông vẫn mặc bộ quần áo tiều phu cũ kỹ, cưỡi ngựa mỗi khi đến cho quà bọn trẻ. Một ngày nọ, ông địa chủ làng, Nicolas đi ngang qua nhà ông, và lập tức Nicolas bị mê hoặc bởi chiếc xe kéo với hai con tuần lộc xinh đẹp, xe có gắn những cái chuông kêu lanh canh dễ thương. Ông địa chủ mặc một bộ đồ đỏ tươi, đầu đội mũ lông cùng màu. “Mình cũng đáng để có nó lắm chứ, con ngựa nhà mình đã quá già và hay than thở, còn bộ quần áo này thì không chịu nổi cái giá rét mùa đông nữa”. Nicolas tìm đến bà thợ may giỏi nhất vùng để có bộ đồ đỏ mơ ước ấy. Nhưng lạ lùng thay, khi bộ đồ hoàn thành thì nó to đến độ trông Nicolas như lọt thỏm vào trong ấy.
“Ôi tôi đã làm hỏng bộ đồ của ông rồi, nó mới thùng thình làm sao”! – Người thợ may áy náy.“Không sao cả, tôi sẽ ăn bánh kẹo cho người to lên như bộ quần áo. Cái quần dài này ư? Tôi sẽ mang một đôi ủng đen để bớt độ lùng xùng. Và bà cứ yên tâm, trông tôi sẽ tuyệt vời trong bộ quần áo này đấy!” – Nicolas trả lời
Ông Già Noel và xe tuần lộc
Ông Già Noel và xe tuần lộc

Và như thế, ông già Noel đã ra đời như một huyền thoại, nhưng đến mấy mươi năm sau, thì bộ trang phục đỏ gắn liền với huyền thoại ấy mới có. Còn bây giờ, hãy tự tin mà bảo với với mọi người rằng: “Ông già Noel trên xe trượt tuyết với hai con tuần lộc là hoàn toàn có thật”.

Ông già Noel và túi quà đầy ấp
Ông già Noel và túi quà đầy ấp
Ông thường chui qua ống khói để vào nhà
Ông thường chui qua ống khói để vào nhà
Ông đem niềm vui đến cho các bé bằng các món quà đáng yêu
Ông đem niềm vui đến cho các bé bằng các món quà đáng yêu
Ông Già Noel và xe tuần lộc
Ông Già Noel và xe tuần lộc
Nanakids Thân chúc giáng sinh an lành đến với mọi nhà
Nanakids Thân chúc giáng sinh an lành đến với mọi nhà
Nguồn internet