Vị vua duy nhất của triều Nguyễn chỉ lấy một vợ, không lập thứ phi. Tuy lấy một người vợ Pháp,
ông vẫn mặc áo dài, khăn đóng như khi ở quê nhà và vẫn dạy con nhớ về
quê hương bản xứ. Ông đã từng nói với các con mình: “Các con chưa thể là
một người Việt tốt, thì hãy là một người Pháp tốt”.
Vị
vua duy nhất của triều Nguyễn chỉ lấy một vợ, không lập thứ phi. Tuy
lấy một người vợ Pháp, ông vẫn mặc áo dài, khăn đóng như khi ở quê nhà
và vẫn dạy con nhớ về quê hương bản xứ. Ông đã từng nói với các con
mình: “Các con chưa thể là một người Việt tốt, thì hãy là một người Pháp
tốt”.
Vua Hàm Nghi tên
húy là Nguyễn Phúc Ưng Lịch (sinh năm 1872). Ông là con thứ 5 của Kiên
Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Phan Thị Thanh Nhàn. Ông là em
ruột của vua Kiến Phúc và vua Đồng Khánh. Gia đình Kiên Thái Vương
Nguyễn Phúc Hồng Cai có lẽ là một trong những gia đình vương gia đặc
biệt nhất trong lịch sử khi có tới 3 người con đã từng lên ngôi vua.
Chỉ có điều lên ngôi giữa thời
loạn lạc, nên vì lý do này, lý do khác mà thời gian tại vị của cả ba vị
vua này đều tương đối ngắn ngủi. Hiện nay, tại Kiên Thái Vương phủ nằm
trên đường Phan Đình Phùng (Thành phố Huế), những hậu duệ trong gia đình
Kiên Thái Vương vẫn thờ Vua Hàm Nghi và một số vị vua khác của triều
Nguyễn.
Nguyễn Phúc Ưng Lịch từ nhỏ đã
cùng mẹ ruột sống ở ngoài phủ. Tuổi thơ của ông trải qua cảnh dân dã,
bần hàn, chứ không được nuôi dạy trong xa hoa, phú quý.
Trước
khi Vua Hàm Nghi lên ngôi, các vị vua trước đó đều có tư tưởng nhún
nhường với Pháp. Đó chính là lý do mà các đại thần Nguyễn Văn Tường và
Tôn Thất Thuyết quyết định đưa Nguyễn Phúc Ưng Lịch lên ngôi vua với
niềm tin rằng, một vị vua trẻ, chưa bị nhiễm các thói xa hoa, phù phiếm
sẽ vẫn còn giữ được tinh thần tự tôn dân tộc, sẽ chịu đựng được gian khổ
và kiên cường cùng nhân dân đứng lên chống Pháp.
Chuyện
kể lại rằng năm Ưng Lịch 13 tuổi, Tôn Thất Thuyết sai sứ giả đến đón
ông về để lên ngôi vua. Lúc đó, Ưng Lịch còn hoảng sợ, không dám mặc áo
mũ được sứ giả dâng lên. Ngày 2 tháng 8 năm 1884, Ưng Lịch làm lễ lên
ngôi hoàng đế, đặt niên hiệu là Hàm Nghi. Khi lên ngôi, Vua Hàm Nghi mới
13 tuổi.
Tuy lên ngôi từ lúc rất nhỏ
tuổi, nhưng có lẽ vì chịu ảnh hưởng của các Phụ chính Đại thần như Tôn
Thất Thuyết, nên từ nhỏ Vua Hàm Nghi đã sớm có tinh thần yêu nước, căm
thù giặc Pháp. Năm 1885, ông theo Tôn Thất Thuyết chạy về vùng Tuyên
Hóa, Quảng Bình, chịu không biết bao nhiêu đói khổ, bệnh tật và thời
tiết khắc nghiệt để chống Pháp.
Nhưng càng chịu đựng gian khổ nhiều, tinh thần yêu nước của vị vua
trẻ càng mãnh liệt. Ông đã viết Chiếu Cần Vương, kêu gọi các sĩ phu yêu
nước và nhân dân nổi dậy chống Pháp dành độc lập. Chiếu Cần Vương được
Vua Hàm Nghi viết ngay tại vùng Tân Sở.
Là một vị vua trẻ, can đảm, dám từ bỏ vinh hoa phú quý để vào vùng
rừng núi nuôi chí chống Pháp nên Vua Hàm Nghi nhận được sự ủng hộ đông
đảo của các sĩ phu yêu nước và quần chúng nhân dân. Chiếu Cần Vương do
ông viết đã tạo ra được một phong trào Cần Vương vô cùng rầm rộ những
năm sau này, khiến thực dân Pháp không ít lần đau đầu tìm cách dẹp bỏ.
Thực dân Pháp đã nhiều lần mua
chuộc Vua Hàm Nghi, nhưng ông đều từ chối. Ông nói: “Ta ưa chết trong
rừng hơn là về làm vua mà ở trong vòng cương tỏa". Chính vì thế mà thực
dân Pháp đã tìm kế bắt ông. Năm 1888, Vua Hàm Nghi bị Trương Quang Ngọc,
kẻ hầu cận cho ông làm phản. Bọn chúng đã bắt Vua Hàm Nghi đưa về nộp
cho Pháp. Khi đó Vua Hàm Nghi mới 17 tuổi. Để ngăn chặn tầm ảnh hưởng
của Vua Hàm Nghi đối với phong trào Cần Vương đang nổi dậy khắp nơi,
thực dân Pháp đã đày Vua Hàm Nghi sang Algerie.
Thượng tuần tháng Giêng năm 1889, Vua Hàm Nghi bị Pháp đưa sang
Algerie trên một chiếc tàu Pháp mang tên Biên Hòa. Nơi dừng chân của ông
là Alger, thủ đô của Algerie. Tại đây, Vua Hàm Nghi bị giam lỏng cách
Alger chừng vài cây số. Đây là một vùng hoang dã trên dãy đồi Mustapha
Supereur. Vua Hàm Nghi sống trong một villa nhỏ ở đây, có tên gọi là
Villa des pins hay còn gọi là Biệt thự Tùng Hiên. Đó là một ngôi biệt
thự nhỏ xung quanh có sân rộng, có vườn hoa và đường đi vào nhà có hai
rặng thông.
Vua Hàm Nghi những ngày bị đi đầy
Lúc
mới bị đày sang Algerie, Vua Hàm Nghi kiên quyết không chịu học tiếng
Pháp vì cho rằng học tiếng Pháp là mặc nhiên thừa nhận lũ thực dân đã
cướp nước mình. Mọi việc giao tiếp, trò chuyện với những người xung
quanh ở Algerie, Vua Hàm Nghi đều thông qua một người phiên dịch. Nhưng
sau vài năm sống ở Algerie, ông nhận ra rằng Algerie tuy là thuộc địa
của Pháp nhưng người dân bản địa ở đây đều là những người rất thân
thiện, gần gũi và tốt bụng, hoàn toàn không mang những âm mưu, lòng dạ
thâm độc như những tên thực dân sang xâm chiếm Việt Nam.
Chỉ sau một thời gian học tiếng Pháp, ông đã nói thông
thạo như người Pháp và ngày càng kết bạn được với nhiều người sống ở
Algerie. Tuy là một vị vua bị lưu đày và bị thực dân Pháp cho người theo
dõi, quản thúc, nhưng sự xuất hiện của Vua Hàm Nghi ở xứ sở thuộc địa
của Pháp ở Bắc Phi vẫn là một sự kiện lớn, gây chú ý cho những người dân
sống ở đây. Ông được chính quyền và nhân dân ở đây chào đón rất nhiệt
liệt. Sau này, chính vì tư cách của ông, một cốt cách nhã nhặn, hài hòa
nhưng vô cùng mạnh mẽ mà ông càng được người dân bản quán yêu quý.
Sau vài năm sống ở đây, Vua Hàm Nghi đã quen với nhiều
trí thức cũng như văn nghệ sĩ tại Alger. Ở tuổi ngoài 20, ông đã thường
xuyên sinh hoạt trong môi trường này. Cũng chính trong hoàn cảnh đó, Vua
Hàm Nghi bắt đầu phát huy được năng khiếu nghệ thuật của mình. Ông học
vẽ, học chụp ảnh và tham gia vào nhiều cuộc triển lãm. Nhờ tài hoa của
mình nên ở Alger, Vua Hàm Nghi được giới thượng lưu trí thức ngưỡng mộ,
bất kể ông là một người da vàng bị lưu đày.
Cùng quãng thời gian Vua Hàm Nghi bị lưu đày sang Alger, một vị
thẩm phán tên là Francois Laloe cũng được điều từ nước Pháp sang giữ
chức vụ Chánh Biện lý Tòa Thượng thẩm Alger. Ông Francois Laloe là người
thuộc dòng dõi quý tộc lớn tại miền nam nước Pháp. Ở Pháp, ông được xếp
vào tầng lớp quý tộc được trọng vọng. Khi sang Alger, ông cũng được
giới quý tộc ở đây tôn kính và là người có tiếng nói, có ảnh hưởng trong
vùng.
Chánh Biện lý Tòa Thượng thẩm Francois Laloa góa vợ.
Ông chỉ có một cô con gái tên là Marcelle Laloe, lúc sang Algerie mới
khoảng 16 tuổi. Là một trong những trí thức lớn, một viên chức đứng đầu
của ngành Tư pháp ở xứ thuộc địa, trong quãng thời gian sống ở Algerie,
ông Francois Laloe thường xuyên góp mặt vào những buổi sinh hoạt văn
hóa-văn nghệ dành cho giới thượng lưu ở Thủ đô Alger được tổ chức tại
gia đình bà Nam tước De Vialar. Đây là một gia đình rất thân thiết và
quý mến Vua Hàm Nghi, nơi Vua Hàm Nghi thường xuyên qua lại, thậm chí
còn sinh hoạt ở đó.
Nhờ mối quan hệ thân tình này, cũng vốn là người được số đông trong
giới thượng lưu ở Alger yêu quý, nên vua Hàm Nghi và gia đình ông
Francois Laloe nhanh chóng trở nên thân thiết với nhau. Là người có tư
tưởng tiến bộ, ông Francois Laloe đã rất khuyến khích cô con gái trẻ
tuổi của mình trò chuyện giao lưu với Vua Hàm Nghi – một người dân một
nước thuộc địa của Pháp đang bị lưu đày nhưng có xuất thân hoàng tộc cao
quý và hơn cả là có một nhân cách đẹp, một tâm hồn đẹp.
Tuy Vua Hàm Nghi hơn Marcelle Laloe 13 tuổi, nhưng không vì thế mà
khoảng cách tuổi tác trở thành rào cản đối với họ. Được tiếp xúc với Vua
Hàm Nghi nhiều lần trong những buổi sinh hoạt tại biệt thự của bà Nam
tước De Vialar, Marcelle Laloe ngày càng có cảm tình với Vua Hàm Nghi.
Dần dần, tình cảm của Marcelle Laloe và Vua Hàm Nghi ngày càng trở nên
sâu đậm.
Tuy ông Francois Laloe có xuất thân quý tộc Pháp, nhưng mối quan hệ
này của cô con gái duy nhất được ông vô cùng ủng hộ. Chỉ một thời gian
sau đó, ông Francois Laloe đã đồng ý cho con gái Marcelle Laloe làm lễ
đính hôn với Vua Hàm Nghi.
Quãng thời gian Vua Hàm Nghi và cô Marcelle Laloe mới nảy sinh tình
cảm, người dân xứ Bắc Phi thường nhìn thấy Vua Hàm Nghi và Marcelle
ngồi trên chiếc xe song mã và cùng đi chơi. Nếu Marcelle mặc trang phục
của một cô gái phương Tây, thì Vua Hàm Nghi mặc trang phục truyền thống
của Việt Nam: áo dài, khăn xếp.
Một cô gái da trắng và một chàng trai da vàng, với hai lối phục
trang hết sức khác nhau, thường xuyên đi dạo trên cỗ xe song mã, đã để
lại nhiều ấn tượng khó quên đối với người dân bản xứ khi đó. Nhưng không
vì thế mà hai người không trở nên đẹp đôi trong mắt mọi người.
Ngày 4/11/1904, 15 năm sau khi bị lưu đày sang Algerie,
Vua Hàm Nghi kết hôn với Marcelle Laloe, con gái của ông Francois
Laloe. Hôn lễ được tổ chức trọng thể và sang trọng tại Thánh đường của
Tòa Tổng Giám mục Alger, với sự góp mặt của đông đảo tầng lớp thượng
lưu, trí thức tại đây. Ông Francois Laloe là người đứng ra làm chủ hôn
cho đám cưới của con gái và cựu Hoàng xứ An Nam.
Vua Hàm Nghi trở thành vị vua đầu tiên của triều Nguyễn, cũng là vị
vua đầu tiên trong lịch sử phong kiến Việt Nam kết hôn với một người
phụ nữ phương Tây. Trong lễ thành hôn của Vua Hàm Nghi và Marcelle
Laloe, khi cô dâu Marcelle vận một chiếc váy cưới lộng lẫy thì Vua Hàm
Nghi vẫn mặc đúng chiếc áo dài đen cổ truyền của quê hương, đầu đội khăn
xếp.
Chính vị Tổng Giám mục Alger là người đã ban phép lành cho Vua Hàm
Nghi và Marcelle Laloe. Kể từ đó, Marcelle Laloa trở thành La Princesse
d’Annam – tức là “Vương phi của nước An Nam”, hay “Vợ của vua An Nam”
(vì theo truyền thống của nhà Nguyễn trước đó, vợ của vua không được lập
là hoàng hậu, chỉ được lập là vương phi. Đến thời vua Bảo Đại, do hoàn
cảnh bắt buộc, Bảo Đại mới phải lập bà Nam Phương làm Nam Phương Hoàng
hậu).
Đám cưới của Vua Hàm Nghi và Marcelle năm 1904 được xem là một sự
kiện lớn và vô cùng đặc biệt tại Alger, một sự kết hợp đặc biệt giữa một
cô gái có xuất thân quý tộc Pháp và một vị vua của một nước thuộc địa
Pháp bị lưu đày. Rất nhiều người dân ở Thủ đô Alger đặc biệt quan tâm
đến sự kiện này. Họ đã kéo nhau đến đứng xung quanh khu vực nhà thờ để
tận mắt chứng kiến lễ cưới và chiêm ngưỡng đôi vợ chồng trẻ khi họ bước
ra khỏi thánh đường.
Sau khi kết hôn, Vua Hàm Nghi
và bà Marcelle Laloe sống rất hạnh phúc. Hai ông bà rất yêu thương và
tôn trọng nhau. Bà Marcelle Laloe theo Thiên Chúa giáo, còn Vua Hàm Nghi
vẫn theo Đạo Phật chứ không cải đạo theo vợ. Ông vẫn ăn vận theo lối cũ
và sống theo lối của một người phương Đông. Nhưng ông vô cùng tôn trọng
tín ngưỡng của vợ và vẫn thường đưa bà đi lễ ở Nhà thờ Thánh Philippe,
nhà thờ của Tòa Tổng Giám mục Alger. Thỉnh thoảng, Vua Hàm Nghi vẫn viết
thư về Huế thông báo tình hình với người thân và nhờ mua cau trầu,
thuốc lá gửi sang.
Vua Hàm Nghi và bà Marcelle Laloe sinh được 3 người
con. Người con đầu của ông bà là Công chúa Như Mai (1905 – 1999), người
con thứ hai là Công chúa Như Lý (1908 – 2005), người con thứ ba là Hoàng
Tử Minh Đức (1910 – 1990). Cả 3 người con của Vua Hàm Nghi đều sinh ra
và lớn lên tại Alger.
Dù không thể đưa các con trai,
con gái của mình về quê hương, nhưng vua Hàm Nghi vẫn dạy con cái mọi
điều về lịch sử Việt Nam, về truyền thống yêu nước và những lần chống
ngoại xâm kiên cường của người Việt. Ông cũng không quên kể cho con cái
nghe về các đời vua triều Nguyễn và câu chuyện lưu lạc của cuộc đời
mình. Ở Alger, khi nói chuyện với những người hầu cận là người Việt Nam,
vua Hàm Nghi vẫn dùng tiếng Việt. Ông thường nói với con cái mình rằng:
“Các con chưa thể là một người Việt Nam tốt thì trước hết hãy là một
người Pháp tốt”.
Sự dạy dỗ con cái chỉn chu của Vua Hàm Nghi đã được thể hiện ở
chính nhân cách đẹp cũng như sự giỏi giang và lòng tự trọng của con cái
ông sau này. Hoàng tử Minh Đức (người con trai duy nhất của vua Hàm
Nghi) khi lớn lên đã vào học tại trường Võ bị, rồi phục vụ trong quân
đội Pháp.
Tuy nhiên năm 1946, khi nhận
được lệnh sang Đông Dương làm nhiệm vụ, Hoàng tử Minh Đức đã kiên quyết
từ chối. Hoàng tử Minh Đức đã nói: “Tôi không thể cầm súng bắn lại đồng
bào tôi. Nếu Chính phủ Pháp muốn đưa tôi ra trước tòa án quân sự thì tôi
phải chịu. Nhưng tôi không thể đi sang Việt Nam đánh giặc cho người
Pháp và chống lại người Việt Nam”. Sau này, người Pháp đã đưa Hoàng tử
Minh Đức sang phục vụ cho một đơn vị lính Lê Dương ở Algerie.
Ông về hưu với quân hàm Đại
tá. Hoàng tử Minh Đức có lập gia đình nhưng không có con, ông mất năm
1990, thọ 80 tuổi. Qua cách ứng xử của Hoàng tử Minh Đức, người ta có
thể thấy tinh thần khẳng khái của Vua Hàm Nghi một thời, khi ông đã từ
chối mọi ngai vàng, mọi phú quý để cùng nhân dân đánh giặc. Dù ở hoàn
cảnh khác nhau, vị thế khác nhau, nhưng Hoàng tử Minh Đức đã chứng tỏ
mình đã được Vua Hàm Nghi nuôi dạy, giáo dục cặn kẽ, để không làm những
việc trái với đạo lý, phản bội nhân dân.
Vua Hàm Nghi có 3
người con, thì cả 3 người đều thành đạt. Người con đầu của Vua Hàm Nghi
là Công chúa Như Mai là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên đỗ Thạc sĩ Nông
Lâm, mà lại đỗ Thủ khoa. Giống như cha mình, Công chúa Như Mai thường
phục sức theo kiểu phụ nữ Việt Nam. Công chúa Như Mai là một hiện tượng
được báo chí Pháp vô cùng quan tâm. Có lần một nhà báo Pháp hỏi Công
chúa Như Mai vì sao lại ăn mặc như thế, Công chúa đáp lại: “Ăn mặc như
thế là thể theo ý muốn của Vua Hàm Nghi”.
Sau khi đỗ Thủ khoa Thạc sĩ
Nông Lâm, Công chúa Như Mai về Alger sống với Vua Hàm Nghi một thời gian
rồi quay trở lại Pháp sống và làm việc. Bà đi đến vùng Dordogne và
Correne, miền Trung nước Pháp, đưa những kỹ thuật trồng trọt đem giúp
dân nghèo ở vùng này và được nhân dân địa phương hết sức quý trọng. Bà
không lập gia đình mà cả đời dành cho sự nghiệp nghiên cứu và lao động.
Khi còn sống, bà là một người phụ nữ Pháp vô cùng giàu có và thường
xuyên đi làm từ thiện, cứu giúp người nghèo. Bà sống trong một lâu đài ở
miền Trung nước Pháp cho đến cuối đời.
Trong số 3 người con của Vua
Hàm Nghi, người duy nhất có cơ hội trở về Việt Nam là Công chúa Như Lý.
Bà sinh năm 1908 – mất năm 2005. Công chúa Như Lý kết hôn với một quý
tộc Pháp và sống một cuộc đời sung túc trong một lâu đài ở miền Trung
nước Pháp. Trong chuyến trở về Việt Nam khi còn sống, bà đã kể về cha
mình – Vua Hàm Nghi – như một người đàn ông vô cùng tuyệt vời, yêu nước
đến hơi thở cuối cùng và cũng vô cùng yêu thương vợ con.
Ông giữ cốt cách của một người
Việt cho đến hơi thở cuối cùng. Đến tận những năm cuối đời, ông vẫn mặc
trang phục dân tộc, vẫn thường xuyên nói tiếng Việt và vẫn ăn các món
ăn Việt Nam. Công chúa Như Lý kể, vì biết không còn cơ hội quay về Việt
Nam, nuôi ước mơ đánh Pháp, nên Vua Hàm Nghi dồn hết tâm sức vào việc vẽ
tranh, chụp ảnh, sáng tác nghệ thuật.
Ông vẽ được rất
nhiều bức tranh đẹp, được giới trí thức, nghệ sĩ ở Alger đánh giá rất
cao. Những bức tranh của ông, sau khi ông mất, những người con của ông
giữ lại như những kỷ vật quan trọng của gia đình. Những bức tranh này
không được các con của Vua Hàm Nghi rao bán. Nhưng thỉnh thoảng nếu có
người nào ngưỡng mộ và thân thiết với Vua Hàm Nghi đến thăm, gia đình
vẫn tặng cho họ một bức tranh của ông làm kỉ niệm.
Vua Hàm Nghi - Những năm cuối đời
Theo
lời kể của Công chúa Như Lý, Vua Hàm Nghi mất vào ngày 14 tháng 1 năm
1944 tại Alger, vì căn bệnh ung thư dạ dày. Ông mất trong đúng giai đoạn
Chiến tranh thế giới thứ II đang diễn ra vô cùng ác liệt. Lúc đó tất cả
những người con của Vua Hàm Nghi đều ở Pháp và nước Pháp đang bị quân
Đức của Hitler chiếm đóng nên không một người con nào của Vua Hàm Nghi
có thể rời khỏi Pháp về Alger để dự đám tang của cha mình.
Đến tận lúc mất năm 1944, vua
Hàm Nghi vẫn sống vô cùng hạnh phúc với bà Marcelle Laloe. Sau này khi
vua qua đời, bà Laloe về sống với các con ở Pháp, rồi cũng qua đời tại
đây.
Thân Thiện Tâm
(Sưu tầm và tổng hợp)