Tuệ Sỹ trên ngõ về im lặng
Từ
Nguyễn Du đến Bùi Giáng, từ Rimbaud đến Phạm Công Thiện, từ Holderlin
đến Hoài Khanh, từ Whitman đến Nguyễn Đức Sơn, từ Tagore đến Phạm Thiên
Thư, từ Tô Đông Pha đến Tuệ Sỹ… bước đi của những thi sĩ thượng thừa ấy
đã làm bay dậy cả trời thơ đất mộng phiêu bồng thi ca. Hòa âm cung bậc
ngân nga nhã
nhạc theo thể điệu cô liêu vang vọng suốt muôn trùng vạn cổ sau xưa:
Giữa thiên đường rong chơi lêu lổng Cõi vĩnh hằng mờ nhạt rong rêu Ta đi xuống quậy trần hoàn nổi sóng Đốt mặt trời vô hạn cô liêu
Tuệ
Sỹ là ai mà thơ hào sảng, hùng tâm tráng khí như thế? Quê quán Quảng
Bình, sinh năm 1943, Tuệ Sỹ nhỏ hơn Phạm Công Thiện 2 tuổi, cũng là một
bậc thiên tài xuất chúng, làu thông kinh điển Nguyên thủy,
Đại thừa và nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Nhật, Hán, Phạn, Pali. Khi
mới vừa 26 tuổi đã viết Triết học về Tánh Không làm chấn động giới văn nghệ sĩ, học giả, thiện tri thức Việt Nam thời bấy giờ.
Cùng đứng tên trong nhóm chủ trương tạp chí Tư Tưởng
của Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, trước năm 1975, Tuệ Sỹ cũng là giáo sư
giảng dạy Thiền tông, Trung quán luận ở Đại học Vạn Hạnh và Cao đẳng
Phật học viện Hải Đức, Nha Trang, nổi bật lên như một hiện tượng độc
đáo, gây bao nguồn cảm hứng cho
những tâm hồn ưa thích thiền học, thi ca và phiêu lãng.
“Chỉ một bài thơ, Tuệ Sỹ đã trùm lấp hết mọi chân trời mới cũ từ Đường thi Trung Hoa tới siêu thực Tây phương.”* Bùi Giáng đã nhận định như thế về Tuệ Sỹ qua bài thơ Không đề:
Đôi mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ Thắp
đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan Cười với nắng một ngày sao chóng thế Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng?
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ Bụi đường dài gót mỏi đi quanh Giờ ngó lại bốn
vách tường ủ rũ Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn
Trừ Bùi Giáng ra, khi nói về Tuệ Sỹ thì có lẽ không ai đủ tư cách, thẩm quyền bằng Phạm Công Thiện: “Có
sống bên cạnh Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát từ ngày này qua ngày khác, trong
những hoàn cảnh khác nhau thì mới may ra cảm nhận đôi chút tác phong
thiền sư kín đáo toát ra một cách tự nhiên, một cách vô công dụng hạnh
từ đời sống thường nhật và tinh thần diệu nhập của hai vị. Tôi xin gọi
hai vị này là thiền sư với tất cả đắn đo thận trọng, với tất cả ý nghĩa
cao đẹp và như
thực của một danh xưng xung thiên chí.”
Như
vậy, chúng ta có thể gọi Tuệ Sỹ là một thiền sư thi sĩ với ý nghĩa
trọn vẹn, tốt đẹp nhất của danh từ. Điều đó chứng tỏ qua những tác phẩm
thâm viễn uyên áo, nhất là thể hiện qua phong cách sống đạm bạc, đơn sơ
giản dị mà rất nghệ sĩ phóng khoáng an nhiên tự tại, khai mở thông lộ tự
do cho con người, biết mỉm cười vô úy, “uy vũ bất năng khuất” trên tinh thần hạo nhiên chi khí đại bi tâm.
Còn
bậc kỳ tài Lê Mạnh Thát, du học ở Mỹ, đỗ ba bằng tiến sĩ
lúc 30 tuổi, bạn thân thiết cận kề Tuệ Sỹ là nhà Phật học, Sử học
quảng bác, lão luyện uyên thâm, một con người quán tuyệt cổ kim, thông
tuệ, siêu quần bạt chúng cũng bằng tuổi Tuệ Sỹ. Toàn bộ tác phẩm Lê
Mạnh Thát dày mấy chục ngàn trang đã đóng góp vào kho tàng văn học Phật
giáo Việt Nam thêm phong phú, vô cùng giá trị.
Năm 1973, Tuệ Sỹ vừa đúng 30 tuổi, viết Tô Đông Pha những phương trời viễn mộng, một
tác phẩm thâm thúy tuyệt trù, trữ tình lai láng, tràn đầy chất nhạc và
thơ, mở ra con đường phong quang sáng tạo, ngạt ngào hương vị thi ca
hòa chan cả trời thơ bát ngát:
“Đạt đến cõi thượng
thừa của Thơ như người học Thiền chứng chỗ Không tịch của Đạo, cái đó
vừa khó vừa dễ. Học Thiền ba mươi năm đày đọa thân tâm mà không thành.
Phẫn chí bỏ đi, bất chợt thấy một cánh hoa rơi, cõi Không tịch cũng
hoát nhiên, đột ngột mở ra. Chỗ ảo diệu đó, khó giảng cho thông. Cho nên
không thể nào lấy tay chỉ thẳng vào cõi thơ, rồi bảo đây là chân diện
mục của nó…
Thơ
phát ra từ những khổ lụy và những nguyện ước khơi vơi của cuộc tồn
sinh, từ độ đó, Thơ đi vào những thảm họa hoành sinh của lịch sử. Từ
buổi bình minh, Thơ vang vọng những lời tình tự thiết tha, từ tiếng
chim thư
cưu nơi cồn cát đến những đêm dài trằn trọc… Thơ dấn bước đi vào cuộc
lữ…
Thơ
phát ra từ cuộc lữ đọa đày rồi trở lại đọa đày cuộc lữ. Cuộc lữ là
trường thể nghiệm lịch sử tồn sinh thảm họa của Thơ và Thơ mở rộng những
phương trời lữ thứ. Quê hương nguyên thủy chỉ là những âm vang của
lịch sử, vang dội ngân dài trong những phương trời viễn mộng. Cho nên
đất của Thơ là đất trích, là những vùng đày ải, đường của Thơ là quán
trọ, là những bước đường ngược gió. Mặn nồng nơi đất trích, lân la nơi
quán trọ, cuộc thể nghiệm dây dưa với hằng triệu vấn vương và cũng là
cuộc thể nghiệm cho khước từ tuyệt đối… Bởi cách
điệu trầm trọng như thế, nên Thơ là phong vận tài hoa, đẹp như những
cụm mây trời trong nắng sớm.”**
Tuệ
Sỹ nói về cõi thơ Tô Đông Pha mà vô hình chung cũng dường như nói về
cõi thơ của chính mình. Thật vậy, thế giới thi ca Tuệ Sỹ đơn sơ mà kỳ
vĩ, bi ai mà hùng tráng, im lặng mà sấm sét, tĩnh toạ mà phiêu bồng. Đó
là cõi thơ trầm thống, khốc quỷ kinh thần vọng vang lên từ một tâm hồn
cô liêu cùng tuyệt với hồn thơ hoằng viễn, uyên mặc u ẩn, ngân dài trên
giai điệu trầm tư lãng đãng:
Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ
mà ngăn nẻo về
Để
cho trời thơ phiêu phưỡng, bước đi lồng lộng, độc hành ca giữa đỉnh cao
và hố thẳm, làm kẻ rong chơi từ thuở hồng hoang hỗn độn, phiêu hốt
tang bồng, rong rêu lêu lổng trong cuộc mộng trần sa:
Ta làm kẻ rong chơi từ hỗn độn Treo gót hài trên mái tóc vào thu Ngồi đếm mộng đi qua từng đọt lá Rủ mi dài trên bến cỏ sương khô
Vì lêu lổng mười năm trời nói mộng Ôm tình già quên bẵng tuổi hoàng hôn Một sớm nọ nghe chim buồn đổi giọng Người thấy ta xô dạt bóng thiên thần
Đất đỏ thắm nên lòng người hớn hở Đá chưa mòn sao lòng dạ trơ vơ Thành phố nọ bởi sương mù nắng quái Nên mười năm quên bẵng mộng giang hồ
Cuộc
rong chơi phiêu bạt, lãng tử giang hồ vô tận đến nỗi quên bẵng hết
những chuyện mộng mị chiêm bao, hồn thi nhân chuếnh choáng, xuất thần
lâng lâng rồi chợt bỗng hóa thân thành cánh chim én mùa xuân bay qua
dòng sông chiều tàn hoang vắng hay làm cánh bướm chao nghiêng, tung
lượn xôn xao giữa mưa nắng phong trần:
Một con én một đoạn đường lay lất Một đêm dài nghe thác đổ trên cao Ta bước vội qua dòng sông biền biệt Đợi
mưa dầm trong cánh bướm xôn xao
Bóng ma gọi tên người mỗi sáng Từng ngày qua từng tiếng vu vơ Mưa xanh lên tóc huyền sương nặng Trong giấc mơ lá dạt xa bờ
Người đứng mãi giữa lòng sông nhuộm nắng Kể chuyện gì nơi ngày cũ xa xưa Con bướm nhỏ đi về trên cánh mỏng
Nhưng về đâu một chiếc lá xa mùa?
Năm tháng vẫn như nụ cười trong mộng Người vẫn đi như nước chảy xa nguồn Bờ bến lạ chút tự tình với bóng Mây lạc loài ôi tóc cũ ngàn năm
Ngàn
năm rồi mà sao vẫn còn mãi lạc loài hỡi mây trắng hoằng viễn miên du?
Nhà thơ chợt lặng thầm trầm tư thắc mắc, chẳng biết chiếc lá vàng úa
rụng xa mùa kia sẽ về đâu giữa phong ba, bão loạn? Nhưng rồi bỗng thấy
“năm tháng vẫn như nụ cười trong mộng”
nên cứ để mặc nhiên cho dòng thơ trôi chảy qua nghìn bến bờ xa lạ nhòa
nhạt hoang vu tận cuối bãi mịt mù. Trước cuộc dâu bể vô thường, đổi
thay thời thế, thi nhân chạnh lòng trắc ẩn trong ngậm ngùi, khắc khoải,
xót xa cho bao thân phận kiếp người phải hốt hoảng, kinh hoàng vượt
trùng dương để tìm kế sinh tồn. Cưu mang nung nấu một nỗi niềm tâm sự
mênh mông, không biết bày tỏ cùng ai nên chẳng biết nói gì hơn là để cho
tiếng lòng ngân lên rưng rức những sầu thương vô hạn trước bao lượn
sóng cuồng phong chìm nổi giữa sinh tử ba
đào:
Một bước đường thôi nhưng núi cao Trời ơi! Mây trắng đọng phương nào Đò ngang neo bến đầy sương sớm Cạn hết ân tình nước lạnh sao?
Một bước đường xa xa biển khơi Mấy trùng sương mỏng nhuộm tơ trời Thuyền chưa ra bến bình minh đỏ Nhưng mấy ngàn năm
tống biệt rồi
Cho hết đêm hè trông bóng ma Tàn thu khói mộng trắng Ngân hà Trời không ngưng gió chờ sương đọng Nhưng mấy nghìn sau ố nhạt nhòa
Cho hết mùa thu biệt lữ hành Rừng thu mưa máu dạt lều tranh Ta so phấn nhụy trên màu úa Trên phìm dương cầm hay máu xanh
Hình
ảnh máu màu xanh bầm tím rơi xuống như mưa mù thảm đạm thật khiếp đảm
làm sao, gợi ra bao cảnh xiêu hồn lạc vía ở địa ngục âm u mù tăm tối.
Ơi chao! Địa ngục đó chẳng phải ở dưới lòng đất sâu kín kia mà lại ở
ngay trên mặt đất trần gian này mới đâu đớn, rợn người khủng khiếp chứ!
Từ khi chứng kiến biết bao oan khiên nghiệt ngã, biết bao khổ lụy đọa
đày diễn ra một cách khốc liệt, tàn bạo, vô nhân đạo, vô lương tâm trên
khắp mọi miền trên thế giới, nhà thơ nhạy cảm của chúng ta đã thấm
thía một nỗi buồn vạn cổ sầu trong vô lượng xót thương:
Ôi nỗi buồn từ ngày ta lạc bước Cố quên mình là thân phận thần tiên
Cốt
cách, phong vận của thi nhân vốn là ở cõi tự do tiêu sái, tiêu dao,
bay bổng chất ngất một trời thần tiên huy hoàng tráng lệ. Thế mà cũng
đành phải cố quên đi tất cả, vì ma quỷ A tu la tham sân si đã hiện hình
như người, dùng bạo lực thâm độc, dốc hết tốc độ tham tàn, sân hận, si
mê giáng xuống những tai ương thảm họa, trong cơn điên đảo loạn cuồng.
Buồn quá phải không, buồn chết lặng quặn lòng đau tê tái giữa chập
chùng bóng tối u mê:
Lửa đã tắt từ buổi đầu sáng thế Một kiếp người ray rứt bụi tro bay Tôi ngồi mãi giữa tha ma mộ địa Lạnh trăng tà lụa trắng trải rừng cây Khuya rờn rợn gió vèo run bóng quỷ Quỷ run run hôn mãi lóng xương gầy Khóc năn nỉ sao hình hài chưa rã Để hồn tan theo đốm lửa ma trơi Khi tâm tư chưa là gỗ mục
Lòng đất đen còn giọt máu xanh ngời
Lời
thơ đồng vọng âm khí quỷ mị Lý Hạ, thấp thoáng ma quái Bồ Tùng Linh.
Một khi đối diện với quỷ ma giữa ban ngày thì hầu hết chúng ta đều hãi
hùng khiếp sợ, nhưng ở đây, kỳ lạ thay, giữa phủ trùm bóng đêm đen tối
rình rập thập tử nhất sinh, nhà thơ vẫn ngồi dạo cung đàn sinh tử một
cách hào hùng vô uý, khi biết mình đang giáp mặt với đủ loại ma quân
đang chập chùng vây khổn:
Bóng có rơi giật mình sửng sốt
Mặt đất rung ma quỷ rộn phương trời Chút hơi thở mong manh trên dấu lặng Đêm huyền vi giai điệu không lời
Ơi
chao! Một mình một bóng lặng thầm lẫm liệt, hiên ngang bất khuất, dấn
bước lên đường dưới gầm trời bão loạn cuồng si. Đi về đâu hỡi Long Thọ,
Mã Minh, Thế Thân, hỡi Tăng Triệu, Bồ Đề Đạt Ma, Huệ Năng, hỡi Lý Hạ,
Tô Đông Pha, Vương Duy, hỡi Thiện Tài, Duy Ma Cật, Thắng Man, hỡi
Suzuki, Nietzsche, Heidegger… giữa điêu tàn tan hoang trên mặt đất? Thân
gầy như hạc như trúc
nhưng hồn thơ vẫn vút bay lồng lộng chín tầng trời cao xanh bát ngát,
rồi lặng hồn lắng nghe đồng vọng vang lên những lời kinh Hoa Nghiêm
hùng tráng:
Trang phục bằng khôi giáp Nhẫn kiên cố Thanh gươm Trí trong cánh tay Đại bi Nguyện đấng Đại Hùng dũng mãnh hướng dẫn con Trực diện chiến đấu với ma quân
Với
cánh tay Đại bi cầm thanh gươm Đại trí, thi nhân còn mặc thêm áo giáp
Vô sanh pháp nhẫn nữa thì cũng thừa
sức dấn mình vào địa ngục trần gian, trực diện đương đầu với đảo điên,
chuyển hóa ma vương, quỷ sứ đang quờ quạng, loạn cuồng trong bóng tối
vô minh. Cuộc thế trận sinh tử kinh hồn, một lần tận tường giáp mặt là
một lần thấu triệt lẽ vô thường huyễn ảo quá đỗi mong manh trong cõi
người ta và cũng chính từ đó, thi nhân mới phát Bồ đề tâm, phát đại
nguyện thượng thừa, gánh vác lên vai vô số khổ lụy đoạn trường của nhân
gian như chính lời Tuệ Sỹ tự nhắc nhở thì thầm: “Bồ
đề tâm, đó là chí nguyện nóng bỏng của một chúng sinh tự thấy mình
đang sống trong cảnh tối tăm giữa đọa đày khổ nhục, mong tìm một con
đường sáng, không những để giải thoát bản thân khỏi những đe dọa
áp bức mà còn là để giải thoát cho tất cả những người cùng cảnh ngộ.
Bồ đề tâm, đó là ý chí kiên cường, bất khuất của một con người bị cột
trói trên ngọn lửa rực cháy, bị chà đạp dưới những sức mạnh tàn khốc bởi
tham vọng điên cuồng của chính ta và của một tập thể ma quái chung
quanh ta. ‘Vui sướng gì, thích thú gì giữa ngọn lửa tam độc không ngừng
thiêu đốt? Bị bao phủ trong bóng tối, sao không đi tìm bó đuốc?’ Không
có tâm nguyện đó, không có ý chí đó, Bồ tát đạo chỉ là một con đường xa
xôi, không tưởng, thần thoại hoang đường và Phật thừa không hơn một
tiếng nói suông của một người mê sảng trong giấc ngủ ngày.”*** Thi nhân thấy như vậy bằng đôi mắt sâu thẳm rực
lửa tam muội của chính mình nên vẫn thường thích nghi tùy duyên nhẹ bước vào ra giữa ta bà đây đó:
Đây khúc nhạc đưa hồn lên máu đỏ Bước luân hồi chen chúc cọng lau xanh Xô đẩy mãi sóng vàng không bến đỗ Trời lênh đênh ma quỷ rắc tro tàn
Vẫn khúc điệu tự ngàn xưa ám khói Ép thời gian thành rượu máu trong xanh Rượu không nhạt mà thiên tài
thêm cát bụi Thì ân tình ngây ngất cõi mong manh
Ôi tiết nhịp thiên tài hay quỷ mị Xô hồn ta lảo đảo giữa tường cao Trưa dài lắm ta luân hồi vô thủy Đổi hình hài con mắt vẫn đầy sao
Từ vô thủy đến vô chung, cuộc luân hồi khởi sự từ đâu chẳng biết, chỉ hay rằng từ lúc nghe đồng vọng những trận gió phù trần tận
chốn miền thiên thu vi vu thổi tới giữa vạn đại miên trường:
Đá mòn phơi nẻo tà dương Nằm nghe nước lũ khóc chừng cuộc chơi Nghìn năm vang một nỗi đời Gió đưa cuộc lữ lên lời viễn phương Đan sa rã mộng phi thường Đào tiên trụi lá bên đường tử sinh
Sinh tử là một việc trọng đại như thi nhân đã có lần
nói tới trong lời tựa Vô môn quan của thiền sư Vô Môn, do Trần Tuấn Mẫn dịch: “Nơi
đây, sa mạc vẫn cứ thiên thu cô tịch trong cơn gió bức bách của hư vô.
Lẽ sống và lẽ chết cứ mãi bập bềnh trên hư ảo. Tâm hồn miệt mài nóng
cháy, nhưng không cháy tan nổi những giấc mộng hãi hùng của hư vô và huỷ
diệt.” Hư vô đã trở
thành một thứ chủ nghĩa đang huỷ diệt mặt đất một cách trầm trọng đau
thương, gây bao tang tóc não phiền, khiến thi sĩ nghe ra nghèn nghẹn tận
đáy hồn:
Một ước hẹn đã chôn vùi tang
tóc Cánh chim trời xa mãi giữa lòng sâu Nghe một nỗi hao mòn trong thoáng chốc Một mùa thu một vạn tiếng kêu gào
Khuya còn lạnh sương mù và gió lốc Thở hơi dài cát bụi cuốn chiêm bao Bên cửa sổ bên kia đồi sao mọc Một lần đi là vĩnh viễn con tàu
Đi để nhớ những chiều pha tóc trắng Mắt lưng chừng trông giọt máu phiêu lưu
Giọt
máu nào phiêu lưu, lạc nẻo xa nguồn trôi tan tác lao đao trong nỗi hao
mòn tàn tạ, trong cơn gió lốc kinh hồn rờn lạnh buốt xương da? Đi là đi
mất, đi biền biệt, biến tan như sợi khói mỏng manh giữa bầu trời gió
lộng không bao giờ trở lại nữa, nhưng vừa đi vừa ngoái nhìn để lắng nghe
những tiếng gào kêu thống thiết của nhân gian, của thập loại chúng
sinh đang quằn quại rên siết trong bao đổ nát đoạn trường, dâu bể tan
hoang đầy thảm hoạ tồn sinh bức bách rợn
ngần:
Tiếng ai khóc trong đêm trường uất hận Lời ai ru trào máu lệ bi thương? Hồn ai đó đôi tay gầy sờ soạng Là hồn tôi tìm dấu cũ quê hương
Ai tóc trắng sững sờ trên tuyết lãnh Bước chập chờn heo hút giữa chiều sương Viên đá nhỏ mấy nghìn năm cô quạnh Hồn tôi đâu trong dấu vết hoang đường?
Hoang
đường nào còn in trên dấu vết lênh đênh? Tên tuổi nào cô liêu đến bạc
trắng cả mái đầu ? Sầu thế kỷ điêu linh nào cứ ngân dài mãi trong não
nề thê thiết:
Tang thương một dải tóc huyền Bãi dâu ngàn suối mấy miền hoang vu Gởi thân gió cuốn xa mù Áo xanh cát trắng trời thu muộn màng
Chênh vênh hoa đỏ nắng
vàng Gót xiêu dốc núi vai mang mây chiều Tóc huyền loạn cả nguyên tiêu Lãng du ai ngỡ cô liêu bạc đầu
Cô
liêu cô đơn, cô độc cô lữ là bước đi kỳ cùng của người thi sĩ dị
thường. Bước đi chênh vênh, bên này cát bụi phù du, bên này bờ Thị Ngạn
xao xác cọng lau gầy sậy yếu lặng phất phơ. Thở cùng hương trái đắng và
hương nắng buồn trong mắt biếc nhiều diệu vợi uyên tư:
Gà xao xác gọi hồn ta từ quá
khứ Về nơi đây cùng khốn với điêu linh Hương trái đắng mùa thu buồn bụi đỏ Ôi ngọt ngào đâu mái tóc em xinh
Từng tiếng lẻ loi buồn thống thiết Nghe rộn ràng từ vết lở con tim Từ nơi đó ta ghi lời vĩnh biệt Nắng buồn ơi là đôi mắt ân tình
Còi xa vắng giữa trưa nào lạc lõng Môi em hồng ta ước một vì sao Trưa dài lắm nhưng lòng tay bé bỏng Để vươn dài trên vầng trán em cao
Em
ở đây chính là hình ảnh cuộc đời. Cuộc đời nếu nhìn từ chân đế, vốn là
tuyệt trần chân mỹ, vốn là bất sinh bất diệt, vốn là Niết bàn, Tịnh độ
vô lượng vô biên. Biết được điều đó, cho nên lòng thi nhân tự bao giờ
vẫn khoan dung rộng lượng, thương yêu nhân loại trong vô ngôn lặng lẽ,
trong tận cùng dung nhiếp
âm thầm, chia sẻ với muôn loài vạn vật trần ai:
Ta sống lại trên nỗi buồn ám khói Vẫn yêu người từng khoảnh khắc chiêm bao Từ nguyên sơ đã một lời không nói Như trùng dương ngưng tụ ánh hoa đào Nghe khúc điệu rộn ràng đôi cánh mỏi Vì yêu người ta vói bắt ngàn sao
Vô
biên vô lượng thương yêu con người tha thiết mà không bao giờ nói mình
yêu
thương gì hết cả, đó mới chính là thương yêu đích thực nhất. Phải
chăng chỉ có những tấm lòng Bồ tát mới có thứ tình yêu vô điều kiện, vô
phân biệt như vậy? Một tình yêu rộng rãi đại bi tâm nhập diệu, kết
tinh thành bản tình ca mà thi sĩ thường lắng nghe từ hun hút biển ngàn,
sông núi giữa trời đất mênh mang:
Ngọn gió đưa anh đi mười năm phiêu lãng Nhìn quê hương qua chứng tích điêu tàn Triều Đông hải vẫn thì thầm cát trắng Chuyện tình người và nhịp thở Trường Sơn
Mười năm nữa anh vẫn lầm lì phố thị Yêu rừng sâu nên khóe mắt rưng rưng Tay anh vói trời cao chim chiều rủ rỉ Đời lênh đênh thu cánh nhỏ bên đường
Mười năm sau anh băng rừng vượt suối Tìm quê hương trên vết máu đồng hoang Chiều khói nhạt như hồn ai còn hận tủi Từng con sông từng huyết lệ lan tràn
Mười năm đó anh quên mình sậy yếu Đôi vai gầy từ thuở dựng quê hương Anh cúi xuống nghe núi rừng hợp tấu Bản tình ca vô tận của Đông phương
Bản
tình ca vô tận ấy, thi nhân vẫn nghe hoài rung ngân bất tuyệt trên
những dặm dài long đong lữ thứ ở dọc đường quán trọ bơ vơ, bên làng mạc
thôn ấp đìu hiu, cạnh ven rừng sơn
dã hay quanh triền sông thị trấn tiêu điều hoặc trên ghềnh suối truông
ngàn hoang vắng tịch liêu giữa những chiều sương khói chơi vơi bềnh
bồng trống trải:
Em trải áo trên hoa rừng man dại Để hoa rừng nước cuộn biết yêu nhau Nhưng nước cuộn xóa đời ta trên bãi Để hoa rừng phong nhụy với ngàn lau
Em xỏa tóc cho cây khô sầu mộng Để cây khô mạch suối khóc
thương nhau Ta cúi xuống trên nụ cười chín mọng Cũng mơ màng như phố thị nhớ rừng sâu
Ta chiến đấu nhọc nhằn như cỏ dại Thoảng trông em tà áo mỏng vai gầy Ôi hạnh phúc chợt thấy mình nhỏ bé Chép tình yêu trên trang giấy thơ ngây
Ta cúi xuống trên chân người bụi đỏ
Để nhìn sâu trong vết tích hoang đường Ta sống lại trên môi cười rạng rỡ Để nhìn sâu trong ngọn nến tàn canh
Bằng
ánh mắt từ tâm thâm cảm, nhà thơ bi tráng của chúng ta nhìn sâu vào
lòng đời với nụ cười bao dung rạng rỡ. Đó là nụ cười tâm đạo như
Krishnamurti: “Người có
tình thương mới thật là tâm đạo, vì đạo chân chính không dựng trên tín
ngưỡng giáo điều. Người có tình thương mới thật có đạo tâm, dẫu thương
một người hay thương
nhiều người. Tình thương là cái hiện tiền, cái tột cùng, cái tất cả,
cái không thể đo lường được.”
Thở cùng điệu hát bản tình ca nhã nhạc vang lừng trên núi rừng cô tịch
hay giữa ngày hội lễ rộn ràng dưới phố thị xôn xao, nhà thơ đều im ắng
lắng nghe trong từng khoảnh khắc lặng trầm, cảm nhận sâu xa vì biết chỉ
là chiêm bao huyễn mộng trong khói bụi chập chờn:
Em mắt biếc ngây thơ ngày hội lớn Khóe môi cười nắng quái cũng gầy hao Như cò trắng giữa đồng xanh bát ngát Ta yêu người vì khoảnh khắc chiêm bao
Em
là nàng thơ, là hình ảnh cuộc sống. Cuộc sống nếu nhìn từ tục đế thì
đầy những thăng trầm, điêu linh khổ lụy từ nghìn xưa đến ngày nay. Khổ
đế là sự thật thứ nhất mà Đức Phật đã chỉ bày cách đây gần ba nghìn năm
rồi, giống như đại văn hào Hermann Hesse phát biểu : “Dù có bị đau đớn quằn quại, tôi vẫn yêu thương trần gian điên dại này.” Nhà thơ Tuệ Sỹ cũng vậy, cũng hết lòng thương yêu con người, dù kiếp người có tàn xiêu hiu hắt:
Ai biết
mình tóc trắng Vì yêu ngọn lửa tàn Rừng khuya bên bếp lửa Ngồi đợi gió sang canh
Một
hình một bóng cô đơn ngồi trên tuyệt đỉnh núi lạnh xanh rờn, sẵn sàng
chờ đợi một điều gì có thể xảy đến, đôi mắt thi nhân cúi nhìn xuống cuộc
đời đang chìm trong bóng tối mù sa mà cảm thương một nỗi u buồn xót xa
sầu khôn tả, sầu cho kiếp người sớm nắng chiều mưa :
Ta không buồn còn ai buồn hơn nữa
Người không đi sông núi có buồn đi Tia nắng mỏng soi mòn khung cửa Để ưu phiền nhuộm trắng hàng mi
Ta lên bờ nắng vỗ bờ róc rách Gió ở đâu mà sông núi thì thầm Kìa bóng cỏ nghiêng mình che hạt cát Ráng chiều xa ai thấy mộ sương dầm?
Ráng
chiều xa bảng lảng bóng
hoàng hôn nhân loại đang phủ trùm vàng vọt xuống khắp vùng sông núi
Đông phương. Cho dẫu đường đời giăng bẫy đầy hầm hố cách ngăn, khó khăn
trắc trở gì gì đi nữa, thi nhân vẫn nhận diện, tỉnh thức trước những sự
kiện đang diễn biến, vì đã bừng ngộ thấy: “Ngay
trong phiền não tức là Bồ đề, ngay trong những nguy hiểm đáng sợ hãi
của sinh tử cũng chính là Niết bàn an ổn. Sợi dây bị tưởng lầm là con
rắn, nhưng không phải hủy diệt sợi dây để diệt trừ ảo giác gây nên sợ
hãi. Ngoài những gì vô thường được thấy, được kinh nghiệm bằng chính
mắt, tai, mũi, lưỡi này, không tồn tại một thế giới chân thường, đại lạc
hay đại ngã nào khác. Đó chính là thực tại Nhất nguyên tuyệt
đối.”****
Phải
chăng, đó là cái thấy bằng tuệ giác siêu việt? Thể hiện một tâm hồn
thượng đẳng hoằng đại, thấu thị lẽ đời lý đạo vô vi. Một khi nhà thơ có
cái nhìn tuệ giác đó rồi thì những sầu khúc thê lương kéo dài trong đợi
chờ não nuột suốt mười lăm năm trường đọa đày viễn mộng như lời thơ tiên
tri trước cuồng phong bão tố mịt mùng cũng chẳng hề dao động mà vẫn như
như tự tại tự do vô ngại:
Tôi vẫn đợi những đêm xanh khắc khoải Màu xanh xao trong tiếng khóc ven rừng Trong bóng tối hận thù tha thiết mãi Một vì sao bên khóe miệng rưng rưng
Tôi vẫn đợi những đêm đen lặng gió Màu đen tuyền ánh mắt tự ngàn xưa Nhìn hun hút cho dài thêm lịch sử Dài con sông tràn máu lệ quê cha
Rồi trước mắt ngục tù thân bé bỏng Ngón tay nào gõ
nhịp xuống tường rêu Rồi nhắm mắt ta đi vào cõi mộng Như sương mai như ánh chớp mây chiều
Chút
thân bé bỏng dù có bị tù ngục lưu đày vì sự ngộ nhận của thế lực vô
minh, nhưng ngay trong dầu sôi lửa bỏng, trong đêm dài sinh tử đó, thi
nhân đã nhập thần đại thiền định, thấu thị tất cả vạn pháp “như sương mai như ánh chớp mây chiều”làm vỡ bùng rơi rụng bóng tối để rực ngời lên ánh phong quang, hiển lộ bóng vô cùng. Một câu thơ nghe bay dậy âm
vang sấm sét từ trong kinh Kim Cang tràn đầy phấn chấn:
Nhất thiết hữu vi pháp Như mộng huyễn bào ảnh Như lộ diệt như điển Ưng tác như thị quán
Dịch thơ:
Hữu vi pháp hiện trùng trùng Như huyễn như bọt nước
tung vỡ rồi Như ánh chớp như sương rơi Thường quán như vậy nhẹ vời phiêu nhiên
Trùng
trùng vạn pháp muôn loài vạn vật núi sông rừng biển, thiên nhiên vũ
trụ và con người đều như mộng như huyễn, như bọt nước như sương rơi…
Phải tận tường thường xuyên thấy rõ ràng như thế như Tuệ Sỹ cũng nhiều
lần nói: “Tất
cả giáo pháp của Phật đều hướng đến diệt trừ tự ngã. Tôi đang tồn tại,
đó là một hiện thực, đồng thời cũng là một ảo ảnh. Đau
khổ là một sự thực. Cái tôi đang đau khổ ấy lại là ảo ảnh. Cái ta ảo
ảnh được bọc trong vỏ trứng vô minh, nó được định hình bằng vọng tưởng
thành thân thể ta, linh hồn ta, sở hữu của ta, tài sản của ta, cho đến
núi sông này là của ta, tài sản này là của ta, ta là tài sản này, sông
núi này là của ta, ta là sông núi này. Cho nên, khi tán gia bại sản,
khi sông núi sụp đổ, cái ta vọng tưởng cũng sụp đổ thì có kẻ trầm mình
xuống sông hoặc treo cổ trên cành. Vì thế, khi nghe nói cái ta này là
ảo ảnh, là không thực, người nghe có thể kinh hoàng như nghe sét đánh
ngang tai. Tiếng sét đó là từ Kim Cang Bát Nhã. Duy có điều, mọi người
đều mù, chỉ thấy bóng tối, mọi người đều điếc, chỉ nghe tiếng vo ve. Làm
sao có thể thấy cái ta chỉ là
ảo ảnh? Làm sao nghe được tiếng sấm từ kinh Kim Cang ? Với những ai có
mắt để thấy, có tai để nghe, kinh Kim Cang sẽ chỉ đường để đối diện với
ảo ảnh của cái tôi và chỉ cách vận dụng kim cang xử đập vỡ vỏ trứng vô
minh bao bọc tự ngã.”
Khi
thi nhân lãnh hội, quán chiếu sâu xa, đã thấy tất cả vạn pháp như ảo
ảnh, mộng huyễn như vậy rồi thì hoát nhiên hiển lộ, bừng sáng lên một
phương trời Tánh Không lồng lộng không ngằn mé, cho nên hết thảy mọi khổ
nạn điêu linh trầm thống đều chuyển hóa thành lửa tịch mịch, tự nhiên
đốt cháy hết những kinh hoàng khủng khiếp của địa ngục trần gian và sầu
khúc thê lương trở thành “Bản tình ca vô tận của Đông phương” thâm thúy dưới ngàn trăng sao xao xuyến lặng bồi hồi:
Nỗi nhớ đó khát khao luồn sợi tóc Vòng tay ôm cuộn khói bâng khuâng Uống chưa cạn chén trà sương móc Trên đài cao em ngự mấy tầng
Lên cao mãi đường mây khép chặt Để xoi mòn ảo tượng thiên chân
Ồ, nguyệt quế ! Trắng mờ đôi mắt Ồ, sao Em? Sao ấn mãi cung đàn?
Giai điệu cổ thoáng buồn u uất Xưa yêu Em xao động trăng ngàn
Từ
xưa đến nay vẫn điệp khúc cung đàn trường ca đại bi tâm trầm lặng ngân
rung trên cung bậc Bất nhị giữa cõi người ta vô thủy vô chung. Chúng
ta hãy lắng nghe, thưởng thức những giai điệu tài hoa của nhạc sĩ tế nhị
cảm giao hòa qua tiếng đàn
dương cầm vi vút dưới ngàn trăng:
Ta nhận chìm thời gian trong khóe mắt Rồi thời gian ửng đỏ đêm thiêng Đêm chợt thành mùa đông huyễn hoặc Cánh chim bạt ngàn từ quãng Vô biên
Từ đó ta trở về Thiên giới Một màu xanh mù tỏa Vô biên Bóng sao đêm dài vời vợi Thật hay hư chiều nhỏ ưu
phiền
Chiều như thế cung trầm khắc khoải Rát đầu tay nốt nhạc triền miên Ôm dấu lặng nhịp đàn đứt vội Anh ở đâu khói lụa ngoài hiên?
Ngoài
hiên chiều phất phới bay qua những vệt nắng nhạt nhòa phôi pha trong
bóng tà huy thấp thoáng lan dần nhẹ tỏa xuống mềm mại những sợi khói
mênh mang:
Nắng lụa đỏ phủ tường rêu xám
bạc Lá cây xanh nghiêng xuống mắt mơ màng Người có biết mặt trời kia sẽ tắt? Ta yêu người từ vết rạn thời gian
Thời
gian và không gian trộn lẫn hòa quyện tan vào trong cùng một tấu khúc
rung cảm, bồng tênh lênh láng dạt dào du dương, vi vu vi vút nguồn cảm
xúc khôn dò của người em thi ca quá tuyệt diệu trong tự tình khúc rung
động thâm thiết lặng huyền hòa:
Tự hôm nào suối tóc ngọt lời ca Tay em
rung trên những phím lụa ngà Thôi huyễn tượng xô người theo cát bụi Vùng đất đỏ bàn chân ai bối rối Đạp cung đàn sương ứa đọng vành môi Đường xanh xanh phơn phớt nụ ai cười Như tơ liễu ngại ngùng lay nắng nhạt Lời tiễn biệt nói gì sau tiếng hát Hỏi phương nào cho nguyện ước Trường Sơn Lời em ca phong kín nhụy hoa hờn Anh trĩu nặng núi rừng trong đáy mắt Mờ phố thị những chiều hôn suối tóc Bóng ai ngồi so phím lụa đàn xưa
Tiếng đàn bất tuyệt miên man réo rắt lặng hồn dưới bàn tay nghệ thuật phiêu diêu, dìu dặt vọng vang bàng hoàng qua những điệp khúc cho dương cầm
thâm tình thấm thiết mãi ngân nga từ cõi mộng không lời. Tiếng đàn vô
ngôn rười rượi dưới vầng trăng gầy tịch nhiên soi chiếu trong vườn sương
khuya mờ ảo lung linh ngời lấp
lánh long lanh:
Nhà đạo nguyên không khách Quanh năm bạn ánh đèn Thẹn tình trăng liếc trộm Bẽn lẽn núp sau rèm
Yêu nhau từ vạn kiếp Nhìn nhau một thoáng qua Nhà đạo nguyên không nói Trăng buồn trăng đi xa
Chao
ơi! Yêu thương nhau đã từ muôn triệu kiếp rồi, hỡi vầng trăng thanh
thoát vàng hoa ảo diệu như nàng thơ gầy yểu điệu, lặng lẽ chia phôi.
Thôi buồn làm chi nữa phải không? Thôi cứ thản nhiên để cho hồn thơ dệt
phím nhạc ngàn đời những tơ đàn diệu âm trầm bổng mênh mang tỏa ngát
mộng xanh huyền:
Tóc em bay trong sương chiều khói biếc Dệt tơ trời thành khúc hát bâng khuâng Tình hay mộng khi Trường Sơn xa hút Đến bây giờ mây trắng gởi tin sang
Hồn tôi đi trong rừng lang thang Cọng lời ru từ ánh trăng tàn Mắt em nhỏ ngại ngùng song cửa Nghe tình ca trên giọt sương tan
Gót chân em nắng vàng xưa viễn phố Những ngón hồng ngơ ngác giữa đường chim Ôi ta nhớ như đêm dài thượng cổ Sợi tóc mềm lơi nhịp hát
trong tim
Trong tim hồn rộn ràng bao nhịp hát hoang sơ từ thượng cổ vọng về, nghe như điệu hát Trang Tử dặt dìu Tiêu dao du, bên bờ sông xa mù Dương Tử, hay như lời thơ ngân nga của Milarepa Gởi lại trần gian trên tuyệt đỉnh ngàn cao Hy Mã Lạp Sơn chập chờn sương khói tỏa thiên thu hoặc như khúc hát nghêu ngao Phóng cuồng ca của Tuệ Trung Thượng Sỹ, trong cơn xuất thần nhập diệu, đại hòa điệu chơi cùng nhật nguyệt, thiên địa tuần
hoàn.
Thế
là, bát ngát bồng tênh trên ngõ về im lặng, tiếng thơ trầm hùng Tuệ Sỹ
như ánh trăng huyền nguyên thủy chiếu diệu xuyên qua ngút ngàn bóng
tối vô minh làm bừng hiện rực ngời lên trên cung bậc ngôn ngữ thi ca
đầy sáng tạo và sáng tạo tân kỳ như Tuệ Sỹ từ thuở thanh xuân đã nghe
tận thần hồn: “Ngôn ngữ
không còn là một hình ảnh héo hắt của Thực tại sai biệt và sai biệt.
Nó không đi chơi vơi trên Thực tại mà đóng vai trò truyền thông như
tiếng gọi từ trên một đỉnh trời Tuyệt đối vô tri, từ trên một đỉnh núi
ngàn đời bất khả xâm phạm, luôn luôn thách đố bước tiến của con người.
Nó đánh mất đi cái cụ
thể nghèo nàn trong tầm mắt thường nghiệm của phàm phu để dẫn đến một
chân trời rực rỡ của sáng tạo.”*****
Con
đường mây trắng thênh thang sáng tạo đã vượt qua những mộng tàn năm
tháng cũ, dù vẫn còn chút dư hương của một thời đọa đày viễn mộng u
sầu:
Màu nắng xế ôi màu hương tóc cũ Chiều chơ vơ chiều dạt mấy hồn tôi Trời viễn mộng đọa đày đi mấy thuở Mộng kiêu hùng hay muối mặn giữa trùng khơi
Vén thanh sắc đổ mù khơi về đối diện Cuộc ân tình lơi lả vội chia phôi Trăng nằm xuống duỗi dài hai bến hẹn Một dòng sông vồn vã động chân trời
Ơi chao! Đã chia phôi từ biệt cuộc ân tình nhân thế từ dạo đó, kể từ ngày như Nguyễn Du xa xưa từng chứng kiến giữa trần ai: “Trải qua một cuộc bể dâu. Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.” Nhà thơ Tuệ Sỹ cũng đi về theo thể điệu phiêu nhiên, quy hồi vĩnh cửu với nụ cười sâu lắng tự tri:
Khói ơi! Bay thấp xuống đi Cho ta nắm lại chút gì thanh xuân Ta đi trong cõi Vĩnh hằng Nhớ tàn cây nhỏ mấy lần rụng hoa
Vĩnh
hằng chẳng ở đâu xa mà ngay trong từng sát na hiện tại, ở đây và bây
giờ, ngay trong tiếng ve sầu hay từng nhịp thở nhẹ nhàng giữa lòng phố
bụi lao xao:
Ve mùa hạ chợt về thành phố Khóm cây già che nắng hoang lương Đám bụi trắng cuốn lên đầu ngõ Trên phím đàn lặng lẽ tan hương Tiếng ve dội lăn tăn nốt nhỏ Khóc mùa hè mà khô cả đại dương
Ngôn
ngữ thi ca thường chứa nhiều ẩn dụ, tượng trưng hàm súc như vậy, chúng
ta tha hồ suy diễn, lãnh hội, cảm nhận theo đủ cách điệu riêng tư của
mình thôi. Đọc thơ
Tuệ Sỹ là rong rêu phiêu lãng bước dạo chơi vào một thế giới diêu mang
kỳ ảo vô vàn:
Một ngày chơi vơi đỉnh thác Nghe bồn chồn tiếng gọi hư không Giai điệu nhỏ dồn lên đôi mắt Mặt hồ im ánh nước chập chờn Mặt hồ im tảng màu man mác Ảnh tượng mờ một chút sương trong Quãng im lặng thời gian nặng hạt Tôi nghe đời trong
tấu khúc Thiên hoang
Tấu khúc Thiên hoang vang rền như Chứng đạo ca xuất thần nhập cốt của thiền sư Huyền Giác hay như Hòa tấu khúc thứ 9
của Beethoven đồng vọng trong tận đáy lòng Không Tánh vô biên, khiến
cho thi nhân tự mình thưởng thức hương vị cô liêu của cuộc sống diệu
thường:
Tự tâm tự cảnh tự thành chương Tự đối bi hoan diệc tự
thưởng
Dịch thơ:
Cô độc cảnh tâm thơ tự xuất Tự ngắm buồn vui tự thưởng thức
Nỗi cô đơn của Tuệ Sỹ cùng tương ứng với triết gia vĩ đại Nietzsche: “Hỡi
cô đơn! Quê hương của ta! Ôi giọng nói của mi nói với ta nghe sao mà
dịu dàng hân hoan đến vậy! Chúng ta không thắc mắc nhau điều gì, không
than thở nhau điều gì, thong dong chúng ta cùng vượt qua những cánh cửa
mở rộng.”
Đồng điệu với thi hào Rainer Maria Rilke: “Cô
đơn, nỗi cô đơn nội tâm mênh mang, đó là điều duy nhất cần thiết đối
với kẻ sáng tạo, nhưng tất cả những gì một mai trở thành khả thể cho
bao người thì ngay từ bây giờ, kẻ cô đơn bắt đầu đổ nền xây móng bằng
hai bàn tay hắn, bàn tay rất ít sai lầm. Bởi vậy, hãy yêu thương nỗi cô
đơn và hãy chấp nhận chịu đựng nỗi khổ đau do nó gây ra với lời hoan ca
mỹ lệ.” Đồng cảm với thiền sư Không Lộ:
Cắm cột am cao đất rắn rồng Vi vu thân thế tuyệt đời ông Đỉnh non có buổi leo lên thẳng Gầm dài một tiếng lạnh hư không
Tiếng
hú tiếng gầm sấm động của thiền sư Không Lộ từ thế kỷ XI vẫn còn vang
dội mãi đến hôm nay. Chẳng hay có còn ai lắng nghe được không như lắng
nghe tiếng vượn hú u trầm thâm thiết trong rừng sâu rú thẳm của Tuệ
Trung Thượng Sỹ:
Dù chốn lầu son hay sơn lâm Nơi nào cũng vậy vẫn an tâm Nhân gian đều thấy ngàn non sáng Ai lắng nghe ra tiếng vượn trầm
Ở
bất cứ nơi nào dù giữa heo hút rừng sâu hay ngay chốn phồn hoa đô hội,
cung vàng điện ngọc đi chăng nữa thì người tự tri tự ngộ, kẻ sáng tạo
đích thực vẫn tiêu dao vô ngại. Cái quan trọng không phải ở hình thức
cư xử bên ngoài mà là bản tánh thanh tịnh sâu kín, là nguồn tâm thâm
diệu bên trong lòng mình đó thôi.
Nỗi
cô đơn trầm hậu đã xuất thần cất lên tiếng thơ ngân dài sâu thẳm lâm
ly, thi nhân đã thưởng thức được hương vị cô liêu của cuộc sống. Thế thì
tuyệt cùng ẩn ngữ thi ca Tuệ Sỹ là gì? Làm sao chỉ ra
được, khi ngôn ngữ cứ lấp lánh ẩn hiện trong ánh sáng phát ra từ tâm
cảm thông tuệ siêu phàm? Có ai nắm giữ được những tiếng dương cầm âm
thanh thánh thót phiêu diêu, dịu dàng vang ngân bất tận từ giữa lòng bàn
tay của người nghệ sĩ tài hoa kia?
Chia
lìa, chia ly, chia tay hay buông bỏ, buông xả hết thảy mọi sự thị phi,
hỷ nộ ái ố dưới thành phố Sài Gòn hỗn độn, ồn động đủ thứ phù hoa, đã
rời khỏi Thị Ngạn Am ở Già Lam gần ba năm nay rồi. Bây giờ Tuệ Sỹ sống
lang thang đúng nghĩa lang thang, hoàn toàn rỗng rang vô sự. Bước đi vô
sở trú, vô sở cầu, vô sở đắc, lặng lẽ mở ra cuộc lữ tự do tự tại giữa
đang là. Đang là theo thể điệu Krishnamurti: “Cái mà Đức Phật gọi là Niết bàn, Đức Chúa gọi là Thiên đàng, chính cái ấy tôi gọi là cái đang là Cuộc sống.” Không còn chạy theo nắm bắt bất cứ một cái gì nữa cả, dù đó là Phật, là Tổ như thiền sư Lâm Tế đã phát biểu hùng hồn: “Con
người vô sự là người đã dừng lại, không còn dính mắc vào một lý thuyết,
một giáo pháp, một đường lối nào nữa hết. Con người vô sự có tự do, có
khả năng sống hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại, không bị bất cứ
một cái gì có thể kéo đi, kể cả lý tưởng độ sinh cứu đời. Bởi vì lý
tưởng độ sinh cứu đời cũng có thể bắt mình chạy đi tìm cầu, bỏ mất giây
phút hiện
tại, bỏ mất cái tâm sáng chói và sáu đạo thần quang đang có mặt, vốn
là nguồn gốc của tất cả chư Phật.”******
Lẫn vào cảnh giới ta bà “hòa kỳ quang đồng kỳ trần”
như Lão Tử hòa cùng ánh sáng nhập cùng cát bụi phiêu du, Tuệ Sỹ thong
dong giống như thiền sư thi sĩ Basho phiêu bồng khắp xứ hoa Anh Đào
Nhật Bản làm thơ và làm thơ giữa ngày tháng lưu linh cùng sương khói
bồng bềnh.
Trên
ngõ về im lặng, thi nhân thường ẩn mình trên núi rừng Đamri hoang vắng
tịch liêu nằm phiêu dật giữa đất trời thanh lương
hùng vĩ. Tuy nhiên cũng có lúc tiêu dao với mây trắng lặng lờ ở thung
lũng Madagoui huyền ảo, lúc thì lên đồi Phương Bối ở vùng Đại Lão, Bảo
Lộc uống trà với nhà thơ Nguyễn Đức Sơn, khi thì rờn lạnh theo sương
ngàn bồng tênh xuôi về phố hoa Đà Lạt, ghé lại bên cầu sông nước Đại
Ninh cùng dăm ẩn sĩ tâm tình, rồi thênh thang xuống miền biển khơi Vạn
Giã, Nha Trang muôn trùng bát ngát… Hát khúc vô thanh siêu thoát làm
hồi phục những tiêu điều, hiu hắt dọc khắp ven đường thi sĩ bước đi qua.
Đi bộ và chỉ đi bộ bằng đôi chân trần đẫm gió sương dãi dầu mưa nắng:
Đi để nhớ những chiều pha tóc trắng Mắt lưng
chừng trông giọt máu phiêu lưu
Không phải phiêu lưu khám phá những phương trời viễn mộng như đại thi hào Tô Đông Pha thuở nào heo hút bên Trung quốc xa mù:
Mù tỏa Lô Sơn sóng Triết Giang Khi chưa đến đó hận muôn vàn Đến rồi về lại không gì lạ Mù tỏa Lô Sơn sóng Triết Giang
Mà cuộc lữ phiêu lưu, phiêu bồng không mục đích, không chỗ trụ, không mong cầu, vì thi nhân
biết rằng, chẳng từ đâu đến cũng chẳng đi về đâu “vô sở tòng lai diệc vô sở khứ” đấy thôi.
Ơi
chao! Giữa thế kỷ XXI này mà vẫn còn một con người tự nguyện đi bộ trên
mặt đất cằn khô này thì quả nhiên là chuyện hy hữu hiếm hoi. Đi một
cách lặng lẽ vô danh, tuyệt nhiên không ai biết tới. Dọc đường mật
hạnh, hành cước vân du, có nhiều người dân thường chưa hề biết Tuệ Sỹ là
ai, cứ ngỡ đó là gã hành khất, thất cơ lỡ vận, bởi thi nhân ăn mặc sơ
sài áo vải sờn vai bạc màu mưa nắng, đội nón cời với gậy trúc trên tay.
Một hình ảnh đẹp nên thơ, gợi liên tưởng đến
những dị nhân hay Bồ tát, tiên ông hóa hiện trong truyện cổ tích, thần
thoại hoang đường.
Phương
trời lưu viễn chơi rong, thõng tay vào chợ thở cùng điệu thở nhập cuộc
sáng tạo quá đỗi thi ca. Hòa cùng nhịp bước lãng du của người thi sĩ kỳ
tuyệt đó, tôi chợt bỗng nghe văng vẳng lời nói của Phạm Công Thiện,
một người bạn thâm tình chí cốt của Tuệ Sỹ:
“Một con người vừa là thi sĩ vừa là thiền sư, vừa là nhà hành động nhập
thế với tinh thần vô công dụng hạnh của bậc Bồ tát. Hành động tích
cực, mãnh liệt toàn triệt mà vẫn giữ cảm thức viễn ly và viễn mộng, vì
không tham vọng, ích kỷ mù quáng, cho nên nuôi
dưỡng cảm thức viễn ly, vì không bị kẹt dính vào tham sân si của thế
tục, cho nên mới hàm dưỡng viễn mộng, Tuệ Sỹ là một trong số ít đạo sĩ
thi nhân với pháp khí phi thường là Trí tuệ Bát nhã cùng với lòng Đại
bi thơ mộng, Tuệ Sỹ là một trong số ít thể hiện được ý nghĩa trọn vẹn
của ý thức chính trị toàn diện, ý thức hành động Bi Trí Dũng, dẫn đường
soi sáng Thể mệnh của Sử tính quê hương…
Thơ
Tuệ Sỹ chính là tiếng thơ đổi giọng của một loài chim bay từ cõi xa xưa
của vô biên tế kiếp trong lòng sâu thẳm của Tính mệnh quê hương…
Anh
không thể cảm thơ người
ta thì anh hãy im lặng, còn nếu cảm được thì anh hãy tha thiết ca ngợi,
đừng e dè giữ gìn gì cả. Không nên có những kẻ phê bình thơ mà chỉ nên
có những người ca tụng thơ. Thơ là của riêng từng người, không có ai
làm thầy ai cả.”
Bắt
chước Phạm Công Thiện, tôi cũng muốn ca ngợi tán thán Tuệ Sỹ, một thiền
sư thi sĩ vĩ đại, một trái tim Kim Cang bất hoại vô úy nhưng ngợi ca
làm chi nữa, khi mà tiếng thơ của thi nhân đã làm chấn động rung chuyển
cả thế giới hoàn cầu và lan tỏa lạ thường ra khắp vũ trụ mười phương
rồi. Thôi thì chỉ xin đọc tặng bài thơ khi một chiều bữa nọ, bất ngờ
trùng ngộ thi nhân đang ẩn cư ở vùng biển xanh Vạn Giã, trong một ngôi
cổ tự rêu phong trầm tịch mịch:
Những phương trời viễn mộng đi
Thi ca tư tưởng bước kỳ ảo qua
Đọa đày một thuở ta bà
Nỗi đau rực cháy thấy ra tột cùng
Ôi! Giấc mơ Trường Sơn rung
Rúng hồn tim máu
chợt bùng vỡ mơ
Kinh thiên động địa sững sờ
Đâu chân diện mục của thơ với thiền?
Mặc như lôi ngồi tịch nhiên
Nghe ban sơ vọng ngân huyền diệu âm
Những điệp khúc cho dương cầm Từ vô tận ý vang thâm thiết niềm
Tâm Nhiên
CHÚ THÍCH
* Bùi Giáng. Đi vào cõi thơ. Ca Dao xuất bản, Sài Gòn 1969
** Tuệ Sỹ. Tô Đông Pha những phương trời viễn mộng. Ca Dao xuất bản, Sài Gòn 1973
*** Tuệ Sỹ. Thắng Man giảng luận. Phương Đông xuất bản 2012
**** Tuệ Sỹ. Huyền thoại Duy Ma Cật. Phương Đông xuất bản 2007
***** Tuệ Sỹ. Triết học về Tánh Không. An Tiêm xuất bản. Sài Gòn 1970
****** Lâm
Tế ngữ lục, Người vô sự. Nhất Hạnh bình giảng. Lá Bối xuất bản 2000
Thơ Tuệ Sỹ (chữ nghiêng), trích trong các tác phẩm:
- Giấc mơ Trường Sơn. An Tiêm xuất bản, Paris 2002
- Những điệp khúc cho dương cầm. Phương Đông xuất bản 2009